28/04/2024 05:49Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Cổ bách hành
古柏行

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi hongha83 vào 13/11/2011 07:29

 

Nguyên tác

孔明廟前有老柏,
柯如青銅根如石。
雙皮溜雨四十圍,
黛色參天二千尺。
君臣已與時際會,
樹木猶為人愛惜。
雲來氣接巫峽長,
月出寒通雪山白。
憶昨路繞錦亭東,
先主武侯同閟宮。
崔嵬枝幹郊原古,
窈窕丹青戶牖空。
落落盤踞雖得地,
冥冥孤高多烈風。
扶持自是神明力,
正直元因造化功。
大廈如傾要梁棟,
萬牛迴首丘山重。
不露文章世已驚,
未辭剪伐誰能送。
苦心豈免容螻蟻,
香葉終經宿鸞鳳。
志士幽人莫怨嗟,
古來材大難為用。

Phiên âm

Khổng Minh[1] miếu tiền hữu lão bách,
Kha như thanh đồng căn như thạch.
Song bì lưu vũ tứ thập vi,
Đại sắc sâm thiên nhị thiên xích.
Quân thần dĩ dữ thì tế hội,
Thụ mộc do vi nhân ái tích.
Vân lai khí tiếp Vu Giáp trường,
Nguyệt xuất hàn thông Tuyết Sơn bạch.
Ức tạc lộ nhiễu Cẩm đình[2] đông,
Tiên Chủ[3], Vũ Hầu[4] đồng bí cung.
Thôi ngôi chi cán giao nguyên cổ,
Yểu điệu đan thanh hộ dũ không.
Lạc lạc bàn cứ tuy đắc địa,
Minh minh cô cao đa liệt phong.
Phù trì tự thị thần minh lực,
Chánh trực nguyên nhân tạo hoá công.
Đại hạ như khuynh yếu lương đống,
Vạn ngưu hồi thủ khâu sơn trọng.
Bất lộ văn chương thế dĩ kinh,
Vị từ tiễn phạt thuỳ năng tống.
Khổ tâm khởi miễn dung lâu nghị,
Hương diệp chung kinh túc loan phượng.
Chí sĩ u nhân mạc oán ta,
Cổ lai tài đại nan vi dụng.

Dịch nghĩa

Trước miếu thờ Khổng Minh có một cây bách già,
Thân và cành cứng như đồng xanh, rễ nổi trên đất cứng như đá.
Vỏ cây xù xì vì sương và mưa, thân bốn chục người ôm mới xuể,
Toàn cây sắc xanh đen vươn lên trời hai ngàn thước cao.
Lưu Bị và Khổng Minh có lúc đã gặp gỡ bên cây này,
Nên nay người đời vẫn thương yêu cây này.
Mây khói kéo dài từ kẽm Vu tới,
Trăng nhô lên chiếu sáng lạnh lẽo tới núi cao phủ tuyết.
Nhớ lúc trước khi đi chơi quanh phía đông đình Cẩm,
Thấy Tiên chủ và Vũ hầu được thờ chung trong một miếu.
Thân và cành cao ngất nghểu trên bình nguyên ngoài thành,
Màu sắc u tịch nhìn thấy qua cửa miếu hoang vắng.
Tuy gặp đất tốt mọc cao lớn như thế,
Nhưng vì cao chót vót và lẻ loi nên vẫn phải hứng chịu các cơn gió mạnh.
Đành rằng đã có sức thần đất phù trì,
Nhưng mọc ngay ngắn còn do tài khéo của thợ trời.
Giả thử nhà lớn xiêu vẹo cần thay cột kèo mới,
Mười ngàn trâu kéo cũng chào thua vì cây nặng như núi gò.
Cây không biểu lộ văn chương, nhưng người đời vẫn kinh sợ oai Vũ Hầu,
Không từ chối việc bị đốn chặt, vì đốn xong ai mang đi nổi.
Há chẳng đã khổ tâm vì dế, kiến làm tổ,
Lại còn loan phượng vì lá thơm mà đến trú ngụ lâu dài nữa.
Người có chí khí cao và những người ở ẩn chớ than vãn,
Từ xưa tới nay những người tài giỏi rất khó dùng.

Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Đền Khổng Minh có cây bá cổ
Bốn chục ôm, cành tựa đồng xanh
Nhuần mưa gió, gốc như thành
Chừng hai nghìn thước, đen xanh ngất trời
Đã có lúc vua tôi gặp gỡ
Đời tiếc thương, cổ thụ còn đây
Liền non Vu, khí tiếp mây
Trăng lên, hơi lạnh ngập đầy Tuyết Sơn
Nhớ đường xưa quanh đông đình Cẩm
Vũ Hầu cùng Tiên Chủ một đền
Núi gò chót vót thân cành
Nét sơn mềm mại rường hoành mái song
Nơi đắc địa mênh mông toạ lạc
Cành ngọn cao, gió bạt vẫn trơ
Sức thần sáng suốt được nhờ
Giữ cho ngay thẳng là do thợ trời
Nhà lớn nghiêng, kíp thời rường cột
Muôn trâu về, gò núi cũng đầy
Văn không lộ, vẫn nể tài
Chưa cấm đốn chặt dám ai đụng vào
Kiến nghênh ngang mà sao để mặc
Cành lá thơm, loan phượng đậu hoài
Than chi ẩn sĩ những ai
Xưa nay tài lớn, tiếc thay khó dùng
Đỗ Phủ viết bài này khoảng năm 766. Lúc đó vì Thành Đô có loạn, ông và gia quyến rời thảo đường tới tạm trú tại Quỳ Châu. Miếu thờ Khổng Minh là một trong các thắng cảnh của vùng này. Cây bách trồng trước miếu ông tả trong bài dễ cũng đã vài trăm tuổi.

[1] Tên tự của Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, đã giúp Lưu Bị mở ra nước Tây Thục.
[2] Chỉ thảo đường của tác giả, nằm bên sông Cẩm khúc, gần Thành Đô (thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên).
[3] Tức Lưu Bị.
[4] Tước hiệu Lưu Bị phong cho Khổng Minh.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Cổ bách hành