20/04/2024 06:35Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hồi 10 - Nhà Lý (1010 - 1225)

Tác giả: Lê Ngô Cát - 黎吳吉

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 17/03/2007 15:59

 

1. Lý Thái Tổ

Bắc Giang trời mở thánh minh,
Lý Công tên Uẩn nhân tình đới suy.
Lê triều làm chức chỉ huy,
Lũ Đào Cam Mộc ứng kỳ phù lên.
Đầu năm cải hiệu Thuận Thiên,
Thăng Long mới đổi đặt tên kinh thành.
Định ra thuế lệ phân minh,
Túc xa, quản giáp quân danh cũng tường.
Hỗn đồng một mối phong cương,
Hai mươi bốn lộ các đường mới chia.
Cử long sấm dậy binh uy,
Diễn Châu gió động tinh kỳ thân chinh.
Biện loan gặp lúc hối minh,
Hương nguyền cảm cách, sóng kình cũng êm.
Bốn phương trong trị, ngoài nghiêm,
Chiêm Thành, Chân Lạp xa đem cung cầu.
Ngựa man sang tiến Bắc triều,
Tống hoàng ban thưởng quan bào thêm vinh.
Ví hay đạo học tinh minh,
Đế vương sự nghiệp nước mình ai hơn?
Có sao tin hoặc dị đoan,
Say vui đạo Phật lưu tiên cảnh chùa?
Để cho dân tục tranh đua,
Ni cô nối gót, tăng đồ chen vai.
Bởi vì sinh cửa Như Lai,
Tiêu sơn từ thuở anh hài mới ra.
Sóng tình chìm nổi ái hà,
Chín ngôi hoàng hậu, phép nhà cũng sai.
Tự mình đã dựng lệ giai,
Khiến nên con cái, thêm bài tương tranh.

2. Lý Thái Tông bình Nùng, phục Chiêm

Thái Tông nối nghiệp thủ thành,
Anh em lại rắp đua giành ngôi cao.
Cùng nhau binh mã sấn vào,
Cấm thành bỗng chốc xôn xao chiến trường.
Trận tiền giết Vũ Đức Vương,
Đông Chinh, Dực Thánh tìm đường chạy xa.
Khoan hình lại xuống chiếu tha,
Thân phiên đã định, nước nhà mới yên.
Ban hình luật, canh tịch điền,
Mở đồ nhất thống cầm quyền tứ chinh.
Mừng xem “Phiên phục, Nùng bình”,
Huy xưng có chữ rành rành biểu tiên.
Vắn dài là số tự nhiên,
Tụng kinh cầu thọ, khéo nên chuyện cười.

3. Lý Thánh Tông, một ông vua nhân dũng

Thánh Tông văn học hơn đời,
Bình Chiêm, đánh Tống, đủ tài kinh luân.
Khuyến nông chăm việc cần dân,
Chiếu chăn thương kẻ tù nhân lạnh lùng.
Thánh hiền tô tượng học cung,
Đặt khoa bác sĩ, ưu dung đại thần.
Ơn riêng mưa móc đượm nhuần,
Đã tiền lại lúa ân cần dưỡng liêm.
Hồ tây vui thú Dâm đàm,
Nỡ đem của nước xây làm cung tiên.
Chuông Sùng Khánh, tháp Báo Thiên,
Phật vàng đúc tượng, say thiền lạ sao.

4. Bà Ỷ Lan nhiếp chính

Nhân Tông tuổi chửa là bao,
Ngoài ra triều yết, trong vào giảng minh.
Thụ di có Lý Đạo Thành,
Ỷ Lan hoàng hậu buông mành giúp nên.
Mở khoa bác học cầu hiền,
Ba thăng một mẫu, thuế điền nhẹ thay!
Có khi xem gặt, xem cầy,
Lòng chăm điền dã, một ngày mấy tao.
Mưa ân ngấm khắp dồi dào,
Chuộc người bần nữ gả vào quan phu.

5. Lý Thường Kiệt bại Chiêm, phá Tống

Thân chinh xe ngựa trì khu,
Phá Sa động bắt man tù Nguỵ Phang.
Chiêm Thành nộp đất xin hàng,
Ba châu quy phụ một đường thanh di.
Tống binh xâm nhiễu biên thuỳ,
Tướng quân Thường Kiệt dựng cờ Bắc chinh.
Bên song Như Nguyệt trú dinh,
Giang sơn dường có thần linh hộ trì.
Miếu tiền phảng phất ngâm thi,
Như phân địa thế, như trì thiên binh.
Bấy giờ Tống mới hư kinh,
Giảng hoà lại trả mấy thành cố cương.
Lại còn hối hận một chương:
“Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên”
Năm mươi năm lẻ lâu bền,
Vũ công văn đức rạng truyền sử xanh.
Thượng dương sao nỡ bạc tình,
Để bà Dương hậu một mình ngậm oan.
Kìa Lê Văn Thịnh mưu gian,
Thương chi quái hổ mà khoan lưới hình!
Phật từ như quả chứng minh,
Chuông chùa Diên Hựu đã thành phúc cai.
Cớ sao chi thứ nối đời,
Trừ quân lại thác vào người hoá duyên?

6. Lý Thần Tông khuyến khích việc nông

Thần Tông sinh cửa Sùng Hiền,
Dấu hang thi giải còn truyền Sài Sơn.
Thức nồng nhuộm vẻ chi lan,
Thông minh học vấn kiêm toàn cả hai.
Năm đầu vừa mới lên ngôi,
Giảng cầu trước đã mở bài kinh diên.
Quy nông cho lính canh phiên,
Rộng ân lại trả quan điền cho dân.

7. Đỗ Anh Vũ lộng quyền

Anh Tông còn thuở xung nhân,
Đỗ Anh Vũ lấy ngoại thân lộng hành.
Ra vào trong trướng, ngoài mành,
Cùng Lê Thái Hậu có tình riêng chung.
Tống giam đã bắt vào trong,
Mà Lê Hậu lại còn lòng đeo đai.
Rượu cơm vẫn cứ đưa mời,
Vàng cho ngục tốt liệu bài thoát ra.
Nghị đồ rồi lại được tha,
Để đoàn Vũ Đái đều là thác oan.

8. Tài kinh quốc của Tô Hiến Thành

Rồi ra vắng mặt quyền gian,
Hiến Thành hết sức cán toàn mới nên.
Khi triều Tống, khi sính Nguyên,
Một niềm cung thuận, đôi bên được lòng.
An Nam, Tống mới cải phong,
Quốc danh từ ấy rạng dòng viêm phương.
Thành nam mở chốn võ tràng,
Tập tành cung ngựa phô trương tinh kỳ.
Uy danh dậy đến biên thuỳ,
Chiêm Thành, Ngưu Hống man di cũng bình.
Tuần du đã tỏ dân tình,
Sơn xuyên trải khắp địa hình gần xa.
Trừ quân vì một nết tà
Đổi sang Long Cán còn là ấu niên.
Thác cô nhờ có tôi hiền,
Dẫu người hối chúc mà quyền chẳng sai.
Cao Tông ba tuổi nối đời,
Hiến Thành cư nhiếp, trong ngoài đều yên.
Di lưu còn muốn tiến hiền
Đem Trần Trung Tá thay quyền tán dương.

9. Lý Cao Tổ thất chính

Tiếc không dùng kẻ trung tương,
Cao Tông hoang túng mọi đường ai can?
Dấu xe quanh khắp giang san,
Chính mình lỗi tiết, du quan quá thường.
Lại thêm thổ mộc cung tường,
Mua quan bán ngục nhiều đường riêng tây.
Nhạc Chiêm rầu rĩ khéo bầy,
Những là tai biến từ này hiện ra.
Trâu đâu lên ngọn am la,
Thước đâu làm tổ góc nhà Kính Thiên.
Bốn phương trộm cướp nổi lên,
Quân Chiêm, người Tống xâm biên mấy kỳ.
Vui chơi nào có biết gì,
Thờ ơ phó chuyện an nguy mặc trời.

10. Quách Bốc chiếm kinh thành

Quyền cương ngày một đổi dời,
Phạm Du đã phản lại vời về kinh.
Bỉnh Di là kẻ trung thành,
Nghe gièm mà nỡ gia hình cớ sao?
Bởi ai gây việc oan cừu,
Để cho Quách Bốc sấn vào kim giai.
Xe loan lánh chạy ra ngoài,
Hoàng thân đế thích mỗi người một phương.

11. Họ Trần giúp vua Lý

Trừ quân đi đến Thiên Trường.
Tình cờ lại gặp một nường tiểu thư.
Con nhà Trần Lý công ngư.
Lưới chài nhưng cũng phong tư khác thường.
Trăng già đưa mối tơ vương,
Mới hay con tạo mở đường di duyên.
Họ Trần từ ấy nổi lên.
Kết bè thích lý, dựng nền tiếm giai.
Trần Tự Khánh ở phương ngoài,
Đem quân Hải ấp vào nơi đô thành.

12. Lý Huệ Tông phát điên

Huệ Tông gặp bước gập ghềnh,
Nhẹ ân mẫu hậu, nặng tình phu nhân.
Lạng châu xe đã Bắc tuần,
Nửa đêm riêng với nàng Trần lẻn đi.
Gặp quân Tự Khánh rước về,
Đương cơn gió bụi bốn bề chưa êm.
Huệ Tông cuồng tật lại thêm.
Khi ngày đứng múa khi đêm nằm dài.
Xuất gia lại muốn tu trai,
Ngôi thiêng phó thác cho người đào thơ.
Đằng sơn bóng nhật đã mờ,
Hai trăm mười sáu Lý cơ còn gì?”

13. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng

Chiêu Hoàng là phận nữ nhi,
Phấn son gánh việc gian nguy được nào!
Xây vần cơ tạo khéo sao?
Bỗng xui Trần Cảnh hiện vào hầu trong.
Người yểu điệu, kẻ thư phong,
Bén hơi rơm lửa, động lòng mưa mây,
Vẩy nước chậu, vắt khăn tay,
Khi đêm đập bóng, khi ngày ngồi chung.
Hoa đào đã dạn gió đông.
Vua tôi phận đẹp, vợ chồng duyên may.
Chiếu rồng ban xuống năm mây.
Mừng rằng nữ chúa ngày nay có chồng.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lê Ngô Cát » Hồi 10 - Nhà Lý (1010 - 1225)