28/04/2024 01:05Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Sư để Hội An phố, đề Quan phu tử miếu
師抵會安鋪題關夫子廟

Tác giả: Nguyễn Nghiễm - 阮儼

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi hongha83 vào 01/11/2011 21:11

 

Nguyên tác

臲卼炎圖慷慨身,
桃園兄弟即君臣。
直相忠義師千古,
無論英雄敵萬人。
心上高光還一統,
目中吳魏失三分。
至今萬國同瞻奉,
匪直巍然海上神。

Phiên âm

Niết ngột viêm đồ khảng khái thân,
Đào viên huynh đệ tức quân thần.
Trực tương trung nghĩa sư thiên cổ,
Vô luận anh hùng địch vạn nhân.
Tâm thượng Cao, Quang[1] hoàn nhất thống,
Mục trung Ngô, Nguỵ[2] thất tam phân.
Chí kim vạn quốc đồng chiêm phụng,
Phỉ trực nguy nhiên hải thượng thần.

Dịch nghĩa

Cơ đồ nhà Hán lung lay, (ngài) đem thân hăng hái vì nghĩa,
Anh em chốn vườn Đào, cũng là vua tôi (của nhau).
Giương cao tấm gương trung nghĩa làm thầy của muôn đời,
Không thể so (ngài) với loại anh hùng sức địch vạn người.
Tấm lòng hướng lên Cao, Quang, mong giang sơn quy về một mối,
Trong mắt không có cảnh nước Ngô, nước Nguỵ chia làm ba thiên hạ.
Cho đến ngày nay, muôn nước cùng chiêm bái kính phụng,
Vòi vọi nguy nga như vị thần trên biển.

Bản dịch của Phạm Quang Ái

Lo Hán suy tàn, chẳng tiếc thân
Vườn Đào huynh đệ, lễ quân thần
Nêu cao trung nghĩa thầy thiên cổ
Coi nhẹ anh hùng địch vạn nhân
Lòng hướng Cao, Quang bền một mối,
Mắt nhìn Ngô, Nguỵ xoá tam phân
Đến nay muôn nước đều thờ cúng,
Vòi vọi trùng khơi uy đức thần.
Lạc khoản: “Cảnh Hưng tam thập lục niên, Ất Mùi, Đoan Dương tiết, tứ Tân Hợi khoa Tiến sĩ, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, phụng sai Tả Tướng quân Nhập Thị Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư Tri Đông các kiêm Tri Trung thư giám, Quốc sử Tổng tài, Đại Tư đồ, trí sĩ khởi phục Trung Tiệp quân doanh, Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, Hy Tư phủ thư” 景興三十六年,乙未,端暘節,賜辛亥科進士,特進金紫荣禄大夫,奉差左将軍入侍参從,户部尚書知東閣兼知中書監,國史總裁,大司徒,致仕起復中捷軍营,春郡公阮儼,希思甫書 (Cảnh Hưng năm thứ 36 (1775), Ất Mùi, tết Đoan Ngọ (5/5 âm lịch), vua ban Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), đặc phong tước Kim tử Vinh lộc đại phu, phụng chỉ nhận chức Tả tướng quân, Tham tụng, Thượng thư Bộ Hộ, coi việc Đông các, kiêm chức Tri trung thư giám, Quốc sử Tổng tài, Đại Tư đồ, về hưu được gọi ra coi việc quân doanh Trung Tiệp, tước Xuân Quận công, Nguyễn Nghiễm, tên chữ là Hy Tư viết).

[1] Cao trỏ Hán Cao Tổ tức là Lưu Bang, người khai lập nhà Tây Hán vào năm 206 trước CN - 9 sau CN. Quang trỏ Hán Quang Vũ, tức Lưu Tú, một hoàng tộc nhà Hán đã nổi dậy chống Vương Mãng (cướp ngôi nhà Hán vào năm thứ 9 sau CN), khôi phục lại nhà Hán, lập ra nhà Đông Hán.
[2] Nhà Hán đến đời Hoàn Linh bắt dầu suy sụp, tạo ra một thời kỳ loạn lạc kéo dài từ năm 190 đến năm 280 sau CN, các thế lực phong kiến cát cứ xâu xé nhau tàn khốc khiến đất nước bị tàn phá, nhân dân điêu linh. Trong cuộc tranh giành đó nổi lên ba thế lực: Nguỵ, do Tào Tháo (155–220) làm chủ; Thục do Lưu Bị (161–223) làm chủ; Ngô do Tôn Quyền (182–252) cầm đầu. Nguỵ được thiên thời, Ngô được địa lợi và thục được nhân hoà.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Nghiễm » Sư để Hội An phố, đề Quan phu tử miếu