20/04/2024 06:48Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Khốc Vương Bành Châu Luân
哭王彭州掄

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/05/2015 11:12

 

Nguyên tác

執友驚淪沒,
斯人已寂寥。
新文生沈謝,
異骨降松喬。
北部初高選,
東堂早見招。
蛟龍纏倚劍,
鸞鳳夾吹簫。
歷職漢庭久,
中年胡馬驕。
兵戈聞兩觀,
寵辱事三朝。
蜀路江干窄,
彭門地理遙。
解龜生碧草,
諫獵阻清霄。
顷顷戎麾出,
叨陪幕府要。
將軍臨氣候,
猛士寒風飆。
井滿泉誰汲,
烽疏火不燒。
前籌自多暇,
隱几接終朝。
翠石俄雙表,
寒松竟後凋。
贈詩焉敢墜,
染翰欲無聊。
再哭經過罷,
離魂去住銷。
之官方玉折,
寄葬與萍漂。
曠望渥窪道,
霏微河漢橋。
夫人先即世,
令子各清標。
巫峽長雲雨,
秦城近斗杓。
馮唐毛髮白,
歸興日蕭蕭。

Phiên âm

Chấp hữu kinh luân một,
Tư nhân dĩ tịch liêu.
Tân văn sinh Thẩm[1], Tạ[2],
Dị cốt giáng Tùng[3], Kiều[4].
Bắc bộ sơ cao tuyển,
Đông đưòng tảo kiến chiêu.
Giao long triền kì kiếm,
Loan phượng giáp xuy tiêu.
Lịch chức Hán đình cửu,
Trung niên Hồ mã kiêu.
Binh qua văn lưỡng quán,
Sủng nhục sự tam triều.
Thục lộ giang can trách,
Bành[5] môn địa lý diêu.
Giải quy[6] sinh bích thảo,
Gián liệp[7] trở thanh tiêu[8].
Khoảnh tráng nhung huy xuất,
Thao bồi mạc phủ yêu.
Tướng quân lâm khí hậu,
Mãnh sĩ hàn phong tiêu.
Tỉnh mãn tuyền thuỳ cấp,
Phong sơ hoả bất thiêu.
Tiền trù tự đa hạ,
Ẩn kỷ tiếp chung triêu.
Thuý thạch nga song biểu,
Hàn tùng cánh hậu điêu.
Tặng thi yên cảm truỵ,
Nhiễm hàn dục vô liêu.
Tái khốc kinh qua bãi,
Ly hồn khứ trụ tiêu.
Chi quan phương ngọc chiết,
Kì táng dữ bình phiêu.
Quảng vọng Ác Oa[9] đạo,
Phi vi Hà Hán kiều.
Phu nhân tiên tức thế,
Linh tử các thanh tiêu.
Vu Giáp trường vân vũ,
Tần thành[10] cận Đẩu tiêu[11].
Phùng Đường[12] mao phát bạch,
Quy hứng nhật tiêu tiêu.

Dịch nghĩa

Đối với người bạn thân thiết rất sợ khi anh ta mất đi,
Thì nay người này đã qua đời rồi.
Lối văn mới nẩy ra từ Thẩm Ước, Tạ Linh Vận,
Xương khác thường thoát từ Xích Tùng Tử với Vương Tử Kiều.
Mới ra làm quan mà đã được tuyển vào chức vụ lớn trong dinh phía bắc,
Nơi toà nhà phía đông sớm quen biết nhau.
Thuồng luồng với rồng cùng quấn quít bên thanh kiếm,
Chim loan chim phượng cùng chung nhau thổi sáo.
Giữ chức nơi triều đình Hán đã lâu,
Đến tuổi trung niên cưỡi ngựa đến xứ Hồ.
Chiến tranh được nghe ở cả hai tầng đài,
Vinh lẫn nhục trải qua ba triều vua.
Đường xứ Thục, bờ sông hẹp,
Cửa châu Bành vùng đất xa.
Cởi dây sinh ra cỏ biếc,
Can gián việc săn bắn là ngăn cản đến trời.
Khoảnh khắc mà cờ quân đã vung ra,
Được tham dự vào việc điều hành doanh trại.
Tướng quân tạo ra khí thế,
Khiến cả đoàn quân dũng mãnh như cơn gió lạnh bùng lên.
Giếng đầy, ai kín nước suối,
Đài báo động thưa thớt nên lửa không cháy.
Ngồi mâm trên thường được thảnh thơi nhiều,
Co ro trên ghế hết cả buổi sáng.
Chốc lát đá xanh thành hai tấm bia trên mộ,
Thế mà thông lại điêu tàn sau cơn lạnh.
Tặng thơ đâu dám để mất,
Bút đã chấm mực rồi nhưng lại muốn buông xuôi.
Vừa khóc một trận nữa xong,
Hồn kẻ xa nhà lúc ẩn lúc hiện nay tiêu tan,
Vị quan này vừa mới qua đời,
Chôn gửi như kiếp bèo trôi.
Trông vời đường Ác Oa,
Tù mù cầu sông Ngân Hà.
Bà vợ ông đã qua đời trước ông,
Khiến cả hai cùng thoát tục.
Nơi Vu Giáp mây mưa dài dài,
Thành nhà Tần gần với sao quai chén.
Tôi giống Phùng Đường lông tóc bạc,
Ngày ngày cứ bơ phờ vì mong mỏi trở về nhà.

Bản dịch của Phạm Doanh

Bạn chí thiết những lo vĩnh biệt,
Ôi người này nay chết thật a!
Văn Thẩm, Tạ mới sinh ra,
Tùng, Kiều xương cốt sao mà giống in.
Phủ hướng bắc tuyển quan cao cấp,
Dinh phía đông sớm gặp quen nhau.
Rồng giải kiếm cùng tựa vào,
Chim loan, chim phượng tiếng tiêu cùng hoà.
Giữ chức lâu trong toà nhà Hán,
Tuổi tráng niên ngựa đến đất Hồ.
Hai viện nghe chuyện binh qua,
Trải vinh nhục ba triều vua phụng thờ.
Đường Thục, sông bên bờ lối chật,
Cửa Thiên Bành thế đất xa vời.
Vui chén rượu, từ quan rồi,
Can ngăn săn bắn, cản trời tội to.
Trong khoảnh khắc tung cờ ra trận,
Bàn việc quân dinh trấn góp lời.
Tướng quân sau khi ra tài,
Cả đoàn quân mạnh một trời gió tung.
Giếng đầy tràn, ai dùng nước suối,
Gió nhẹ, đài lửa khói không lên.
Tuổi già thường được an nhàn,
Co ro trên ghế miên man cả ngày.
Hai bia đá đặt ngay bên mộ,
Cây thông kia sau đó tơi bời.
Tặng thơ nào dám bỏ rơi,
Ngọn bút chấm mực để rồi lại thôi.
Lại khóc lóc một hồi mới nín,
Hồn xa nhà khi đến khi lui.
Quan này ngọc đã nát rồi,
Thân đem vùi lấp bèo trôi một tuồng.
Đường Ác Oa xa trông bát ngát,
Cầu sông Ngân heo hút mây trời.
Phu nhân trước đã qua đời,
Thế là hai vị tới nơi vĩnh hằng.
Mây mưa Vu Giáp từng rơi mãi,
Thành Tần kia tận cuối chòm sao.
Phùng Đường bạc trắng tóc râu,
Mong về ngày những rầu rầu thấy đâu.
(Năm 766)

[1] Thẩm Ước (441-513), văn nhân thời Nam Bắc triều.
[2] Tạ Linh Vận (85-433), nhà văn học nước Tống thời Nam triều.
[3] Xích Tùng Tử 赤松子, theo Thần tiên truyện là thần mưa (vũ sư) vào đời vua Thần Nông.
[4] Vương Tử Kiều 王子喬, theo Thần tiên truyện là thái tử Tấn, có tài thổi sáo, phát thanh như chim phượng hoàng. Cũng gọi là Vương Kiều 王喬, hay Vương Tử Tấn 王子晉.
[5] Còn có tên là Thiên Bành 天彭, thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Có câu phương ngôn "Trước có Bành Châu, Sau sinh Thành Đô".
[6] Dùng để đeo ngang lưng cái ấn hình con ba ba, chỉ việc từ quan.
[7] Vương Luân là quan ngự sử nên dùng từ gián liệp (can ngăn việc săn bắn, hành vi cao hơn thập di, bổ khuyết).
[8] Chỉ vua.
[9] Tên sông thuộc An Tây, Cam Túc, truyền thuyết cho là ngựa thần xuất từ đây.
[10] Trường thành.
[11] Bảy ngôi sao trong chòm Bắc Đẩu, từ sao thứ năm tới thứ bảy, tạo thành dạng giống như quai của chén uống rượu.
[12] Người thời Tây Hán, làm quan qua nhiều đời vua. Tới đời Hán Vũ Đế cử ông chức vụ mới, lúc đó đã hơn chín chục tuổi, ông từ chối và đưa con ra làm thay.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Khốc Vương Bành Châu Luân