25/04/2024 02:49Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Sấu mã hành
瘦馬行

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 05/02/2015 11:45

 

Nguyên tác

東郊瘦馬使我傷,
骨骼硉兀如堵牆。
絆之欲動轉欹側,
此豈有意仍騰驤。
細看六印帶官字,
眾道三軍遺路旁。
皮幹剝落雜泥滓,
毛暗蕭條連雪霜。
去歲奔波逐餘寇,
驊騮不慣不得將。
士卒多騎內廄馬,
惆悵恐是病乘黃。
當時曆塊誤一蹶,
委棄非汝能周防。
見人慘澹若哀訴,
失主錯莫無晶光。
天寒遠放雁為伴,
日暮不收烏啄瘡。
誰家且養願終惠,
更試明年春草長。

Phiên âm

Đông giao sấu mã sử ngã thương,
Cốt cách lột ngột như đổ tường,
Bạn chi dục động chuyển y trắc,
Thử khởi hữu ý nhưng đằng tương.
Tế khan lục ấn đới quan tự[1],
Chúng đạo tam quân di lộ bàng.
Bì can bác lạc tạp nê chỉ,
Mao ám tiêu điều liên tuyết sương.
Khứ tuế bôn ba trục dư khấu,
Hoa lưu bất quán bất đắc tương.
Sĩ tốt đa kỵ nội cứu mã,
Trù trướng khủng thị bệnh thừa hoàng.
Đương thời lịch khối ngộ nhất quyết,
Uỷ khí phi nhữ năng chu phòng.
Kiến nhân thảm đạm nhược ai tố,
Thất chủ thố mạc vô tinh quang.
Thiên hàn viễn phóng nhạn vi bạn,
Nhật mộ bất thu ô trác sang.
Thuỳ gia thả dưỡng nguyện chung huệ,
Cánh thí minh niên xuân thảo trường.

Dịch nghĩa

Ở ngoại ô phía đông có con ngựa gầy, khiến tôi thương hại nó,
Xương sọ nhô lên như các bức vách.
Nó bị buộc, muốn cử động cứ phải bước nghiêng nghiêng,
Phải chăng nó vẫn có ý lồng lộn chăng.
Coi kỹ sáu dấu ấn, mang chữ của quan,
Họ nói rằng quân đội đã bỏ rơi nó bên đường.
Da khô nẻ nứt dính đầy bùn,
Lông bẩn vì trải mưa gió, trông thảm hại.
Năm trước vượt sóng đuổi tàn binh giặc,
Giống ngựa tốt không luyện tập quen thì không thể đương đầu nơi trận mạc được.
Binh sĩ thường cưỡi ngựa trong chuồng,
Cứ e ngại sợ đó là con thừa hoàng bệnh.
Vào lúc gò đống hụt một bước,
Bỏ hoang mi vì không còn làm việc gì được nữa.
Nó trông thấy người buồn rầu như muốn than vãn,
Không có chủ nữa nên trông dáng phờ phạc.
Trời lạnh bỏ nơi xa, làm bạn với bày nhạn,
Chiều tối chẳng được giắt về, bỏ mặc quạ rỉa vết lở loét.
Nhà ai có ý ban ân huệ cuối cùng hãy nuôi lấy nó đi,
Cứ thử coi, sang năm thì cỏ xuân sẽ cao đó!

Bản dịch của Phạm Doanh

Ta thương ngựa ốm, đông ngoại ô,
Lố nhố như tường, xương trán nhô.
Bị cột muốn quay, đành nghiêng ngả,
Phải chăng nhảy phóng, ý muốn phô?
Coi sáu dấu in chữ quan đó,
Họ nói quân sĩ bỏ ngoài gò.
Da khô nứt nẻ đầy bùn bám,
Từng trải tuyết sương, lông xác xơ.
Năm trước vượt sóng đuổi quân giặc,
Ngựa giống không tập, sao nên trò.
Binh sĩ ưa cưỡi ngựa trong láng,
Ngại sợ gặp phải ngựa lơ mơ.
Vào lúc gò đất hụt chân bước,
Bỏ rơi mi liền vì hết nhờ.
Thấy người rầu rĩ như than vãn,
Mất chủ, buồn sao, vẻ thẫn thờ.
Trời lạnh bỏ hoang, bạn cùng nhạn,
Quạ rỉa vết thương lúc tối mò.
Ai có lòng thương xin nuôi hộ,
Cứ thử, sang năm cỏ ngập bờ.
(Năm 758)

[1] Đời Đường ngựa của nhà nước có đóng dấu đăng ký ở hai bên trái phải nơi: cổ, đùi, vai.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Sấu mã hành