06/05/2024 13:14Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tự tình văn bài 1

Tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Vinh - 阮氏玉榮

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 12/08/2019 14:05

 

Trời cao muôn dặm thẳm xa,
Quảng Hàn[1] nỡ để Hằng Nga lạnh lùng.
Tưởng nguồn cơn khéo chạnh lòng,
Trách duyên dám trách cửu trùng[2] thắm phai.
Vả tôi kém sắc phạp tài,
Nhằm thương muôn đội lượng trời chở che.
Xét mình bồ liễu le te,
Dám rằng cù mộc[3] dám khoe hảo cầu[4].
Phận thường mọn mảy nữ lưu,
Muôn mong xét biết ái ưu ghi lòng.
Sách vàng[5] rờ rỡ đề phong,
Những mong xứng chỉ chút công báo đền.
Tuy rằng kỳ ngộ thiên duyên,
Gót đầu toàn đội ơn trên tài bồi.
Non ân bể đức bằng trời,
Muôn phần báo đáp chưa vời một ly.
Trộm xem trên cả nhân nghì,
Vậy nên áy náy bấc chì mỉa mai.
Tay đâu bưng được miệng ai,
Nắng mưa cũng tiếng mỉa mai lọ là.
Thấy chiều thưa nguyệt phai hoa,
Thừa cơ dễ khiến gièm pha nhiều điều.
Nghĩ rằng đức Thuấn nhân Nghiêu,
Chở che dù có đăm chiêu dày vò.
Chắc rằng sông núi hẹn hò,
Hay đâu bể ái chút dò cũng hao.
Đạo màu há dám rằng sao,
Canh chầy vò võ lầu cao nguyệt tà.
Tưởng khi cầm sắt khúc hoà,
Trăm năm cù mộc một nhà trúc mai.
Bây giờ tin diễn[6] vãng lai,
Cửa ngăn dây gió nguyệt cài then sương.
Tưởng khi đầm ấm thiên hương,
Ngửa trông một nghĩa để gương muôn đời.
Bây giờ gần bén xa rời,
Một lòng khôn thở nhiều lời nể nang.
Tưởng khi lạm sánh nhà vàng,
Nghìn năm để trách một trường áng xuân.
Bây giờ cách diễn ải Tần,
Một bề trực đức chín lần khôn thâu.
Càng phen càng bối rối sầu,
Ngu trung dễ thấu nhiệm mầu thiên cơ.
Cớ chi nên nỗi sinh sơ,
Bâng khuâng lòng ước ngẩn ngơ dạ phiền.
Vì con chồi quế non Yên[7],
Thì chi đến nỗi nhiều phen thế này.
Nhởn nhơ song dạ khôn khuây,
Buồn xem bể nữ nước mây thêm ngừng.
Nhiều phen sấm chớp vang lừng,
Bồ hòn đã đắng thì gừng lại cay.
Nào khi giá ngự bình Tây,
Cần lao dám ngại nước mây sương hàn.
Dày êm gối biếng ngôi Càn[8],
Tấc gang nỡ để mấy ngàn riêng tây.
Vụng lầm vả tiếng một ngày,
Nỡ cho kẻ mọn sánh bầy rao ca.
Quản bao phận tiện[9] dã hoa[10],
Nữa trong thể thống quốc gia dường nào.
Dám xin tài quyết lượng cao,
Quyền cương nỡ để tay trao kẻ ngoài.
Vững phù mạnh nước lâu dài,
Dẫu sao thì cũng là người nhà vương.
Trót đà lạm dự tào khang,
Trị bình cũng lấy tam cang làm đầu.
Ngập ngừng kể lấy sự đầu,
Bút hoa mấy chữ lệ châu đôi hàng.
Cả lòng xin trước nhà vàng,
Cây gương nhật nguyệt rỡ ràng tiêu lâm[11].
Nghìn năm khắc cốt minh tâm,
Kẻ nông nỗi chữ tình thâm thế cười.
Nền vương sáng rỡ giữa trời,
May nhờ hồng phúc muôn đời lâu xa.
Nguyên vương phi được chúa yêu quý, sợ có ngày bị thất sủng nên sinh lòng đố kỵ với đám cung tần. Năm Cảnh Hưng thứ 20 (1760) vì ghen với người sủng cơ là Thị Mỹ, bà cầm hộp trầu mà ném, chẳng may ném nhằm chúa. Chúa giận truyền đuổi ra khỏi cung, bắt giam vào bản dinh ngoài thành Thăng Long. Bà hối hận soạn hai bài thơ này dâng lên, chúa cảm động cho xe loan ra rước trở vào cung.

[1] Quảng là rộng, hàn là lạnh. Tiếng dùng để chỉ cung trăng, mênh mông, lạnh lẽo. Trên cung Quảng Hàn chỉ có chị Hằng Nga, con ngọc thố và chàng Ngô Cương tức chú Cuội ở.
[2] Chín tầng, chỉ trời và ngôi vua.
[3] Cây to cành lớn và cong xuống để cho dây bìm dây sắn leo lên. Nghĩa bóng là vợ cả đối xử với vợ bé có lòng thương. Chữ mượn trong sách Kinh thi “Nam hữu cù mộc, Cát luỹ luy chi” (Phía Nam có cây to, cành cong xuống, dây sắn dây bìm leo quanh gốc). Cù mộc nói vợ lớn, cát luỹ (sắn bìm) nói vợ nhỏ.
[4] Tốt đôi. Chữ trong Kinh thi: “Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu; Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu” (Chim thư cưu kêu dịu dàng trên doi sông; Người thục nữ hình dung yểu điệu cùng người quân tử rất xứng đôi).
[5] Tức là sắc lệnh của vua chúa viết trên giấy vàng (sắc phong tước vương phi cho bà họ Nguyễn).
[6] Là xa, dài, vắng.
[7] Con trai tài giỏi. Họ Đậu ở Yên sơn có 5 người con trai đều làm nên danh phận. Người đương thời tặng cho 4 chữ là “Yên sơn ngũ quế”. Bà phi không có con trai chỉ có một gái chết sớm là Tiên Hoa công chúa.
[8] Ngôi vua chúa. Càn là quẻ Càn, quẻ đứng đầu trong bát quái thường để chỉ trời, vua chúa, cha.
[10] Hoa ngoài nội (cỏ nội hoa hèn).
[9] Phận hèn.
[11] Rừng chim tiêu liêu ở. Chữ mượn trong câu “Tiêu liêu sào lâm, Bất quá nhất chi” (Chim tiêu liêu đậu nơi rừng, Chỉ choáng một cành mà thôi, chớ không choáng cả rừng).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Thị Ngọc Vinh » Tự tình văn bài 1