20/04/2024 23:00Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Kính ký tộc đệ Đường thập bát sứ quân
敬寄族弟唐十八使君

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 08/03/2015 10:49

 

Nguyên tác

與君陶唐後,
盛族多其人。
聖賢冠史籍,
枝派羅源津。
在今氣磊落,
巧偽莫敢親。
介立實吾弟,
濟時肯殺身。
物白諱受玷,
行高無汙真。
得罪永泰末,
放之五溪濱。
鸞鳳有鎩翮,
先儒曾抱麟。
雷霆霹長松,
骨大卻生筋。
一失不足傷,
念子孰自珍。
泊舟楚宮岸,
戀闕浩酸辛。
除名配清江,
厥土巫峽鄰。
登陸將首途,
筆劄枉所申。
歸朝局病肺,
敘舊思重陳。
春風洪濤壯,
谷轉頗彌旬。
我能泛中流,
搪突鼉獺瞋。
長年已省柁,
慰此貞良臣。

Phiên âm

Dữ quân Đào Đường[1] hậu,
Thịnh tộc đa kỳ nhân.
Thánh hiền[2] quán sử tịch,
Chi phái la nguyên tân.
Tại kim khí lỗi lạc,
Xảo nguỵ mạc cảm thân.
Giới lập thực ngô đệ,
Tế thì khẳng sát thân.
Vật bạch huý thụ điếm,
Hạnh cao vô ô chân.
Đắc tội Vĩnh Thái mạt[3],
Phóng chi Ngũ Khê[4] tân.
Loan phụng hữu sát cách[5],
Tiên nho tằng bão lân[6].
Lôi đình phích trường tùng,
Cốt đại khước sinh cân.
Nhất thất bất túc thương,
Niệm tử thục tự trân.
Bạc châu Sở cung[7] ngạn,
Luyến khuyết hạo toan tân.
Trừ danh phối thanh giang,
Quyết thổ Vu Giáp lân.
Đăng lục tương thủ đồ,
Bút táp uổng sở thân.
Qui triều cục bệnh phế,
Tự cựu tứ trùng trần.
Xuân phong hồng đào tráng,
Cốc chuyển phả di tuần.
Ngã năng phiếm trung lưu,
Đường đột đà thát sân.
Trưởng niên[8] dĩ tỉnh đà,
Uý thử trinh lương thần.

Dịch nghĩa

Chú em là dòng dõi họ Đào Đường,
Dòng họ lớn có nhiều người.
Bậc thánh hiền đã đứng đầu sử sách,
Các ngành với nhánh lan đầy nguồn bến.
Hiện nay cái vẻ trỗi lên cao,
Không dám gần cái gian trá, trái lẽ.
Chú em tôi thật là một người nổi bật,
Lúc cứu đời dám hy sinh cả tính mạng mình.
Vật trong trắng tránh tì vết,
Đức hạnh cao quý thì không nhơ cái tính thật của mình.
Mắc tội vào năm cuối đời Vĩnh Thái,
Bị thuyên chuyển tới vùng Ngũ Khê.
Chim loan chim phượng có bộ lông xơ xác,
Các bậc có học thời trước từng ôm lân.
Sấm chớp thình lình giáng xuống thông cao,
Xương to hết tạo ra gân.
Một lần gục ngã không làm tổn thương,
Nghĩ đến chú, ai là người biết tự quý.
Tôi ghé thuyền cạnh cung vua Sở,
Thương tiếc cửa vua xưa mà đau đớn nhiều.
Bỏ cái danh đi để hoà mình với sông trong,
Đó là đất cạnh Vu Giáp.
Lên bờ để khởi đầu cuộc hành trình,
Ghi chép uổng cái công bày ra.
Trở lại với triều đình thì mắc kẹt có bệnh suyễn,
Thuật lại chuyện cũ thì ý cứ phải nhắc lại.
Dưới gió xuân sóng lớn nổi lên,
Hang hốc bị xô đẩy như chuyển đi càng xa.
Tôi có thể thả thuyền giữa dòng,
Xông xáo như thế sợ rằng cá sấu với rái cá nổi giận.
Bác lái đã khoan mái chèo,
An ủi như thế mới là bề tôi trung thành.

Bản dịch của Phạm Doanh

Dòng Đào Đường có chú,
Họ lớn nhiều người tài.
Thánh hiền đứng đầu sử,
Nhành phái đầy bãi doi.
Lúc này thế lớn mạnh,
Chẳng dám gần bọn tồi.
Chú em thật nổi trội,
Dám liều thân giúp đời.
Vật trắng ngại dính bẩn,
Tính tốt lòng sáng ngời.
Cuối Vĩnh Thái mắc tội,
Bến Ngũ Khê phải rời.
Nho xưa, lân từng nhớ,
Loan phượng cánh tả tơi.
Thông cao sét bỗng đánh,
Xương lớn, gân hết trồi.
Một lần ngã chẳng nản,
Nghĩ chú thật đáng noi.
Đậu thuyền cạnh cung Sở,
Nhớ vua càng bồi hồi.
Sông trong đem thân náu,
Cạnh Vu Giáp chính nơi.
Lên bờ tính thăm thú,
Bút mực bày uổng thôi.
Về triều, kẹt bệnh phổi,
Chuyện cũ, ý nói hoài.
Gió xuân, sóng lớn nổi,
Hang hốc cứ xa trôi.
Giữa dòng tôi muốn dạo,
Sấu, giải giận sục sôi.
Bác lái đà khoan mái,
An uỷ lòng bề tôi.
(Năm 768)

Thiếu thời vì mẹ chết sớm, nên Đỗ Phủ được hai bà cô chăm sóc. Một trong hai bà này có chồng họ Đường. Ông có soạn bài văn bia cho bà này, đề là Đường cố Vạn Niên huyện quân kinh triệu Đỗ thị mộ chí 唐故萬年縣君京兆杜氏墓誌 (Bài văn bia mộ bà họ Đỗ, vợ ông họ Đường đã qua đời thuộc huyện Vạn Niên nơi kinh đô).

[1] Quốc hiệu của vua Nghiêu. Nghiêu trước được phong ở đất Đào, sau lại được phong ở đất Đường, nên sau này có hiệu là họ Đào Đường 陶唐氏.
[2] Chỉ vua Nghiêu.
[3] Năm 765.
[4] Vùng Vũ Lăng có 5 khe: Hùng, Lưỡng, Tây, Vu, Thần.
[5] Hay "sát vũ" 鎩羽: rã cánh, chim không thể bay cao được.
[6] Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, khi nghe tin người nước Lỗ bắt được con kỳ lân, bèn ngưng không viết tiếp.
[7] Tức Sở Khâu, kinh đô xưa của vua Vệ Văn Công, nay thuộc huyện Hoạt, Hà Nam.
[8] Do chữ "trưởng niên tam lão" 長年三老, theo nghĩa vùng Tam Giáp, chỉ các người lái thuyền.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Kính ký tộc đệ Đường thập bát sứ quân