03/10/2023 07:41Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Bắc Tống, Liêu
Đăng bởi tôn tiền tử vào 01/09/2018 16:42

Nguyên tác
天既喪我妻,
又復喪我子。
兩眼雖未枯,
片心相欲死。
雨落入地中,
珠沈入海底。
赴海可見珠,
掘地可見水。
唯人歸泉下,
萬古知已矣。
撫膺當問誰,
憔悴鑒中鬼。
Phiên âm
Thiên ký táng ngã thê,
Hựu phục táng ngã tử.
Lưỡng nhãn tuy vị khô,
Phiến tâm tương dục tử.
Vũ lạc nhập địa trung,
Châu trầm nhập hải để.
Phó hải khả kiến châu,
Quật địa khả kiến thuỷ.
Duy nhân quy truyền hạ,
Vạn cổ tri dĩ hỹ.
Phủ ưng đương vấn thuỳ,
Tiều tuỵ giám trung quỷ.Dịch nghĩa
Trời đã làm ta mất vợ
Lại còn làm ta mất con nữa
Lệ hai mắt tuy chưa khô
Trong lòng như muốn chết
Mưa rơi xuống đất
Châu chìm đáy biển
Xuống biển có thể lấy lại châu
Đào đất có thể thấy nước
Chỉ có người xuống suối vàng
Muôn thuở thế là hết
Vò ngực biết hỏi ai
Chỉ thấy trong gương mặt quỷ tiều tuỵBản dịch của Lê Xuân Khải
Trời làm ta mất vợ
Lại làm mất con nữa
Nước mắt tuy chưa khô
Lòng như sống chết dở
Mưa rơi xuống đất chứa
Châu chìm đáy biển cả
Xuống biển thấy được châu
Đào đất nước còn đó
Chỉ người về địa phủ
Biết là đi muôn thuở
Vò ngực biết hỏi ai
Trong gương quỷ gầy võ
Năm Khánh Lịch thứ tư, tác giả giải nhiệm từ Hồ Châu đến Biện Kinh, ngày bảy tháng bảy thuyền đi đến Cao Bửu, người vợ kết tóc 17 năm ốm mất, ông làm ba bài Điệu vong. Không lâu, con trai thứ, nhũ danh là Thập Thập cũng chết ở trên đường, người thân nối nhau ốm chết, đã gây cho nhà thơ những mất mát nặng nề, nỗi buồn khôn nguôi, viết nên bài thơ này rất đậm nét dân ca nhạc phủ.
Nguồn: Mai Nghiêu Thần tập biên niên hiệu chú, quyển 14, NXB Thượng Hải cổ tịch, 1980