02/04/2023 12:41Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ca trù (hát nói); Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi kẻ thích làm thơ vào 12/04/2006 07:42
Giang sơn bất thiểu anh hùng khách[1],
Gánh kiền khôn[2] đeo nặng kẻ rừng nho.
Thiên phú ngô, địa tái ngô,
Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý.[3]
Dã thị giang sơn chung tú khí,
Quả nhiên đài các xuất danh công.[4]
Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng,
Cờ báo tiệp[5] giữa trời Nam bay bướm nhẹ.
Tài bộ thế mà công danh lại thế,
Nợ trần hoàn quyết giả lúc này xong.
Dồi dào thiên tứ vạn chung[6],
Khanh hầu xa mã tướng công lâu đài[7].
Trần ai ai dễ biết ai?
Nguồn:
1. Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính biên soạn & giới thiệu, NXB Văn học, 1983
2. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Việt Nam ca trù biên khảo, Nhà in Văn Khoa, Sài Gòn, 1962
3. Nam Phong tạp chí, số 132, tháng 8-1928
[1] Chữ Hán: 江山不少英雄客. Nghĩa: Non sông không thiếu gì khách anh hùng.
[2] Gánh trời đất; ý nói nhiệm vụ nặng nề với đời trong khoảng trời đất này.
[3] Chữ Hán: 天覆吾,地載吾,天地生吾原有意. Nghĩa: Trời che ta, đất chở ta, Trời đất sinh ta vốn có ý.
[4] Chữ Hán: 也是江山鐘秀氣,果然臺閣出名公. Nghĩa: Vốn là khí đẹp của non sông chung đúc lại, Hẳn sẽ nên người có danh vọng ở chốn đài các.
[5] Cờ báo tin mừng thi đỗ hay thắng trận.
[6] Nghìn cỗ xe tứ mã, vạn thùng thóc. Đời Xuân Thu, Tử Cống giàu có đến nghìn cỗ xe ngựa kéo, Nguỵ Thành làm quan ăn lộc muôn chung thóc.
[7] Chữ Hán: 卿侯車馬相公樓臺. Nghĩa: Xe ngựa khanh hầu đi, lâu đài tướng công ở.