19/04/2024 11:57Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Dạ thính Hứa thập nhất Tổn tụng thi ái nhi hữu tác
夜聽許十一損誦詩愛而有作

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 03/01/2015 08:07

 

Nguyên tác

許生五臺賓,
業白出石壁。
余亦師粲可,
身猶縛禪寂。
何階子方便,
謬引為匹敵。
離索晚相逢,
包蒙欣有擊。
誦詩渾遊衍,
四座皆辟易。
應手看捶鉤,
清心聽鳴鏑。
精微穿溟涬,
飛動摧霹靂。
陶謝不枝梧,
風騷共推激。
紫燕自超詣,
翠駮誰剪剔。
君意人莫知,
人間夜寥闃。

Phiên âm

Hứa sinh Ngũ Đài[1] tân,
Nghiệp bạch xuất thạch bích[2].
Dư diệc sư Xán, Khả[3],
Thân do phọc thiền tịch.
Hà giai tử phương tiện,
Mậu dẫn vi sất địch.
Ly sách vãn tương phùng,
Bao mông[4] hân hữu kích.
Tụng thi hồn du diễn,
Tứ toà giai tích dịch.
Ứng thủ khán chuỷ câu,
Thanh tâm thính minh đích.
Tinh vi xuyên minh hãnh,
Phi động tồi tích lịch.
Đào, Tạ[5] bất chi ngô,
Phong, tao[6] cộng thôi kích.
Tử yến[7] tự siêu nghệ,
Thuý bác thuỳ tiễn dịch.
Quân ý nhân mạc tri,
Nhân gian dạ liêu khuých.

Dịch nghĩa

Ông Hứa từng ở vùng núi Ngũ Đài,
Là nơi nghiệp trắng xuất hiện nơi vách đá.
Tôi cũng coi Tăng Xán và Huệ Khả làm thày,
Thân này vốn có ràng buộc với cái yên tĩnh của thiền rồi.
Bất kể tới duyên do nào của ông,
Tôi với ông có đưa lối sai thì cũng giống nhau thôi.
Xa cách mãi tới già mới gặp nhau,
Che chở cái mù mờ mừng vì có cái khui ra.
Ngâm thơ rất miên man phóng túng,
Bốn bên đều bái phục, nghiêng ngả.
Người bén nhậy thấy liềm cong,
Lòng thanh nghe mũi tên réo.
Tinh vi mà xuyên cả cõi tịch mịch,
Bay động như sét đánh.
Không có chống lại thi ca của Đào Tiềm, Tạ Linh Vận,
Mà cùng với phong,tao phấn chấn lên.
Ngựa nòi tự nó đạt tới mức cao,
Beo xanh ai là người xẻ thịt.
Ý của bácngười ta chẳng thèm biết,
Đời người là đêm tối mờ mịt như thế đó.

Bản dịch của Phạm Doanh

Bác Hứa ở Ngũ Đài,
Kinh Phật từ vách đá.
Thân này gắn với Thiền
Tôi cũng theo Xán, Khả.
Lối nào ông tiếp thu,
Đúng, sai cùng vậy cả.
Cách trở, già gặp nhau,
Vướng mù mừng khui mở.
Ngâm thơ cứ huyên thiên,
Bốn bên đều nghiêng ngả.
Nhà nghề thấy móc cong,
Lòng tĩnh nghe đạn ré.
Li ti xuyên cõi xâu,
Rầm rầm như sấm nổ.
Cùng mê mẩn phong tao,
Không trái ngược Đào, Tạ.
Ngựa nòi vốn tài cao,
Beo xanh ai đâm mổ.
Ý ông người chẳng hay,
Đời người đêm buồn bã.
(Năm 755)

[1] Ở Đại Châu, huyện Ngũ Đài, Sơn Tây, là một trong bốn núi nổi tiếng đẹp của Trung Quốc. Những người theo đạo gia thì gọi là nơi trung tâm của thần tiên nên có tên Tử Phủ sơn. Vì có năm chỏm cao vời nên mang tên Ngũ Đài. Trong núi có nhiều chùa, nên còn có tên Thanh Lương sơn.
[2] "Bảo tích kinh" 寶積經 là bộ kinh quy tụ những điều chính về Phật giáo được dịch sang chữ Trung Quốc từ đời Tần, sau này sư Huyền Trang đời Đường dịch bổ túc thêm và mang tên "Đại bảo tích kinh". Trong đó có đề cập tới Thuần bạch nghiệp, Ngũ giới, Thập thiện, Tứ thiền, Tứ định.
[3] Hai sư Tăng Xán 僧璨 và Huệ Khả 慧可 (487-593). Đạt Ma 達摩 là vị tổ Thiền tông bên Trung Quốc, viên tịch truyền lại cho Huệ Khả (tổ thứ hai), Huệ Khả sau truyền lại cho Tăng Xán. Đạt Ma là một trong mười tám vị La hán tên là Sát-đế-lị 剎帝利 (Kshatriya), trước tên là Bồ-đề-đà-la 菩提多羅, sau này theo tổ thứ hai mươi bảy là Bát-nhã-đà-la 般若多羅 mà đổi tên thành Bồ-đề-đạt-ma 菩提達摩. Tương truyền ông là con một nhà vua miền nam Ấn Độ, năm đầu Phổ Thông đời Lương tới Trung Quốc, vùng Quảng Đông, gặp viên chế sứ và được viên này dâng biểu lên vua. Huệ Khả cũng gọi là Tăng Khả, tên tục là Cơ Quang 姬光 người gốc vùng Hổ Lao, huyện Huỳnh Dương, Hà Nam. Ông trước theo Lão Trang, sau hiểu được tâm pháp của Đạt Ma mà xin làm đệ tử.
[4] "Bao mông" cũng tương tự như "kích mông". Chữ trong Kinh Dịch, quẻ Mông, hào Thượng cửu: "Bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu" 不利為寇,利禦寇. Lời tượng: "Lợi dụng ngư khấu, thượng hạ thuận dã" 利用禦寇,上下順也 (Làm giặc thì hại, chống giặc thì lợi).
[5] Đào Tiềm (345-427), một văn nhân thời Tấn sớm từ quan về ở ẩn, trước cửa trồng 5 cây liễu nên hiệu là Ngũ liễu tiên sinh; và Tạ Linh Vận (385-433), nhà văn học nước Tống thời Nam triều, là cháu của Tạ Huyền 謝玄, khi bé có tên là Khách nhi nên ông cũng được gọi là Tạ Khách 謝客, được phong là Khang Lạc công 康 樂公, thời nhỏ ham học có tài viết, vẽ, thích du lịch leo núi, nên đã sáng chế ra guốc gỗ dùng đi núi.
[6] Phong chỉ Kinh Thi, tao chỉ Sở từ.
[7] Tên giống ngựa tốt thời xưa.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Dạ thính Hứa thập nhất Tổn tụng thi ái nhi hữu tác