20/04/2024 23:14Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hồi 07

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 29/06/2005 11:10

 

Thân thiếp đành liều, cho trọn đạo hiếu,
Duyên em mong cậy, để trọn chữ tình.
(Câu 695-802)


695. Một mình nàng, ngọn đèn khuya
Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu[1]
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời[2]!
Công trình kể biết mấy mươi
700. Vì ta khắng khít cho người dở dang
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa!
Trời Liêu[3] non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà tự tôi!
705. Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh[4] chưa dứt hương thề[5],
Làm thân trâu ngựa[6] đền nghì[7] trúc mai[8]
Nợ tình chưa trả cho ai
710. Khối tình[9] mang xuống tuyền đài[10] chưa tan!
Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn[11]
Dầu chong trắng dã, lệ tràn thấm khăn

Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân[12]
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715. Cơ trời[13] dâu bể[14] đa đoan[15]
Một nhà để chị riêng oan một mình
Cớ gì ngồi nhẫn[16] tàn canh
Nỗi riêng còn mắc với tình chi đây?
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
720. Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai!

Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa:
725. Giữa đường đứt gánh tương tư
Giao loan[17] chắp mối tơ thừa[18] mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
730. Hiếu tình có lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non[19]
Chị dầu thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối[20] hãy còn thơm lây
735. Chiếc thoa với bức tờ mây[21]
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dầu em nên vợ, nên chồng,
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
740. Phím đàn với mảnh hương nguyền[22] ngày xưa
Mai sau, dầu có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này;
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
745. Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu[23], đền nghì trúc mai
Dạ đài[24] cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan
Bây giờ trâm gãy bình tan[25]
750. Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân[26]!
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc[27] như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi[28] lỡ làng
755. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!
Cạn lời, hồn ngất máu say
Một hơi lạng ngắt, đôi tay lạnh đồng

Xuân huyên[29] chợt tỉnh giấc nồng
760. Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài
Kẻ thang, người thuốc bời bời
Mới giầu cơn vựng[30], chưa phai giọt hồng[31]
Hỏi: Sao ra sự lạ lùng?
Kiều càng nức nở, mở không ra lời
765. Nỗi nàng, Vân mới rỉ tai:
Chiếc vành này với tờ bồi ở đây...
Này cha làm lỗi duyên mày,
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em!
Vì ai rụng cải, rơi kim[32]
770. Để còn bèo nổi, mây chìm vì ai?
Lời con dặn lại một hai
Dẫu mòn bia đá[33], dám sai tấc vàng[34]!
Lạy thôi, nàng lại rén chiềng[35]:
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi
775. Sá chi thân phận tôi đòi[36]
Dẫu rằng xương trắng quê người, quản đâu!
Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi[37]
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780. Quản huyền[38] đâu đã giục người sinh ly
Đau lòng kẻ ở, người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm[39]
Trời hôm, mây kéo tối rầm
Dầu dầu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương

785. Rước nàng về đến trú phường[40],
Bốn bề xuân toả[41], một nàng ở trong
Ngập ngừng thẹn lục e hồng[42]
Nghĩ lòng[43], lại xót xa lòng đòi phen[44]
Phẩm tiên[45] rơi đến tay hèn
790. Hoài công nắng giữ mưa gìn[46] với ai!
Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào[47] thà bẻ cho người tình chung!
Vì ai ngăn đón gió đông[48]
Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi
795. Trùng phùng[49] dầu hoạ có khi
Thân này thôi có còn gì mà mong!
Đã sinh ra số long đong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?
Trên yên[50] sẵn có con dao
800. Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này.
Trích đoạn của phần này (từ câu “Cậy em, em có chịu lời” đến câu “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”) được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

[1] Cũng như nghĩa đành (dầu lòng, đành lòng).
[2] Một lời thề nguyền. Ý Kiều nói số phận ra sao cũng đành, nhưng chỉ đau lòng là trót đeo đẳng lời thề với Kim Trọng.
[3] Liêu Dương.
[4] Một kiếp sống nữa, kiếp sau cũng như nói lai sinh.
[5] Mảnh hương thề nguyền. Xem chú thích câu 517.
[6] Theo thuyết luân hồi nhà Phật, người nào kiếp này mắc nợ ai mà chưa trả được, thì kiếp sau phải hoá làm thân trâu ngựa nhà người ta để đền trả cho xong.
[7] Tức là chữ “nghĩa” được đọc chệch ra.
[8] Tình nghĩa bền chặt thân thiết như vậy cây trúc, cây mai thường được trồng gần nhau.
[9] Tình sử: Xưa có một cô gái yêu một người lái buôn. Người lái buôn đi mãi chưa về, cô ta ốm tương tư mà chết. Khi hoả táng, quả tim kết thành một khối rắn, đốt không cháy, đập không vỡ. Sau người lái buôn trở về, thương khóc, nước mắt nhỏ vào khối ấy liền tan ra thành huyết.
[10] Nơi ở dưới suối vàng, tức nơi ở của người chết.
[11] Ở đây có nghĩa là nghĩ quanh, nghĩ quẩn mãi không dứt.
[12] Giấc ngủ ngon lành.
[13] Tức thiên cơ, máy trời.
[14] Cũng như “bể dâu”.
[15] Nhiều mối nhiều việc.
[16] Tiếng cổ, ngồi nhẫn là ngồi mãi suốt đêm.
[17] Do chữ loan giao, tức thứ keo chế bằng máu chim loan. Tương truyền người xưa thường dùng để nối dây đàn và dây cung.
[18] Ví dây tơ tình với dây đàn, dây tơ tình bị đứt.
[19] Lời thề nguyền chỉ non thề bể.
[20] Do chữ cửu tuyền, chỉ nơi suối vàng.
[21] Tờ giấy vẽ mây, tức tờ giấy ghi lời thề nguyền của Kim, Kiều.
[22] Những mảnh gỗ thơm đã đốt dở trong cuộc thề nguyền của Kim, Kiều. Thời xưa, khi thề nguyền với nhau, người ta thường đốt hương.
[23] Một loại cây ưa mọc gần nước. Cây bồ liễu rụng lá sớm hơn hết các loài cây, vì cái thể chất yếu đuối đó nên trong văn cổ thường dùng để ví với người phụ nữ.
[24] Đài đêm tối, nghĩa bóng là cõi chết.
[25] Thơ Bạch Cư Dị đời Đường: “Bình truỵ trâm chiết thị hà như, Tự thiếp kim triêu dữ quân biệt” (Cái cảnh bình rơi trâm gãy là thế nào? Nó giống như cảnh biệt ly của thiếp với chàng buổi sáng nay). Đây dùng chỉ cuộc tình duyên tan vỡ.
[26] Người tình, cũng như tình lang.
[27] Chính nghĩa là phận mỏng, tức bạc mệnh.
[28] Hoa rụng xuống, nước trôi đi, nguyên chỉ cảnh xuân tàn, sau thường mượn để nói sự tàn tạ của đời người.
[29] Còn đọc là “thung huyên”, chỉ cha mẹ. Thung (hay xuân) là một loại cây lớn, chỉ người cha; huyên là một thứ cỏ, chỉ người mẹ. “Xuân đường” hay “huyên đường” cũng đều chỉ cha mẹ.
[30] Cơn ngất, bất tỉnh nhân sự.
[31] Giọt nước mắt có máu, giọt lệ thảm.
[32] Nói tình duyên nửa chừng bị chia lìa, tan vỡ.
[33] Chỉ một khoảng thời gian rất lâu.
[34] Tấc lòng bền vững như vàng.
[35] Trình, tiếng cổ.
[36] Kiều bán mình làm vợ lẽ nàng tự xem như kẻ ăn người ở.
[37] Mấy hồi trống tan canh.
[38] Chính nghĩa là ống trúc và dây đàn, thường dùng chỉ đàn. Đây nói họ Mã đưa các đồ âm nhạc đến đón Kiều.
[39] Đại ý cả câu: giọt lệ rơi xuống, có thể thấm qua cả đá, tơ ruột rút ra, có thể làm chết rũ cả con tằm.
[40] Chỗ phố trọ, nhà trọ.
[41] Chữ xuân ở đây không phải là mùa xuân. Lúc Mã Giám sinh đón Kiều là mùa thu: “Đêm thu một khắc một chầy”.
[42] Lục và hồng là màu lá xanh, màu hoa đỏ thường dùng để chỉ sắc đẹp của phụ nữ.
[43] Nghĩ riêng trong lòng.
[44] Nhiều phen, nhiều lúc.
[45] Của trên cõi tiên. Hèn hạ, tục tằn.
[46] Ý nói giữ gìn trinh tiết một cách thận trọng.
[47] Hoa đào còn phong nhị ví với người con gái còn trinh.
[48] Tiếp ý chữ nhị đào ở trên, ý nói: Không để cho người tình chung bẻ nhị đào, giống như ngăn đón gió đông không cho đến với nhị đào vậy.
[49] Gặp gỡ lần thứ hai, ý nói đến sau này lại gặp Kim Trọng.
[50] Cái án, một loại bàn cổ, chân cao, bề mặt hẹp và dài.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Hồi 07