06/10/2024 06:51Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 25/02/2015 09:36
Nguyên tác
吾憐滎陽秀,
冒暑初有適。
名賢慎出處,
不肯妄行役。
旅茲殊俗還,
竟以屢空迫。
南謁裴施州,
氣合無險僻。
攀援懸根木,
登頓入矢石。
青山自一川,
城郭洗憂慼。
聽子話此邦,
令我心悅懌。
其俗則純樸,
不知有主客。
溫溫諸侯門,
禮亦如古昔。
敕廚倍常羞,
杯盤頗狼藉。
時雖屬喪亂,
事貴当匹敵。
中宵愜良會,
裴鄭非遠戚。
群書一萬卷,
博涉供務隙。
他日辱銀鉤,
森疏見矛戟。
倒屣喜旋歸,
畫地求所曆。
乃聞風土質,
又重田疇辟。
刺史似寇恂,
列郡宜競惜。
北風吹瘴癘,
羸老思散策。
渚拂蒹葭塞,
嶠穿蘿蔦冪。
此身仗兒僕,
高興潛有激。
孟冬方首路,
強飯取崖壁。
歎爾疲駑駘,
汗溝血不赤。
終然備外飾,
駕馭何所益。
我有平肩輿,
前途猶准的。
翩翩入鳥道,
庶脫蹉跌厄。
Phiên âm
Ngô liên Huỳnh Dương tú,
Mạo thử sơ hữu thích,
Danh hiền thận xuất xử.
Bất khẳng vọng hành dịch.
Lữ tư thù tục hoàn,
Cánh dĩ lũ không bách.
Nam yết Bùi Thi Châu,
Khí hợp vô hiểm tịch.
Phan viên huyền căn mộc,
Đăng đốn nhập thỉ thạch.
Thanh sơn tự nhất xuyên,
Thành quách tẩy ưu thích.
Thính tử thoại thử bang,
Linh ngã tâm duyệt dịch.
Kỳ tục tắc thuần phác,
Bất tri hữu chủ khách.
Ôn ôn chư hầu môn,
Lễ diệc như cổ tích.
Sắc trù bội thường tu,
Bôi bàn phả lang tạ.
Thì tuy thuộc táng loạn,
Sự quí đương thất địch.
Trung tiêu khiếp lương hội,
Bùi, Trịnh phi viễn thích.
Quần thư nhất vạn quyển,
Bác thiệp cung vụ khích.
Tha nhật nhục ngân câu,
Sâm sơ kiến mâu kích.
Đảo tỉ hỉ toàn quy,
Hoạ địa cầu sở lịch.
Nãi văn phong thổ chất,
Hựu trọng điền trù tích.
Thứ sử tự Khấu Tuân[1],
Liệt quận nghi cạnh tích.
Bắc phong xuy chướng lệ,
Luy lão tư tán sách.
Chử phất kiêm hà tái,
Kiêu xuyên la điểu mịch.
Thử thân trượng nhi bộc,
Cao hứng tiềm hữu kích.
Mạnh đông phương thủ lộ,
Cường phạn thủ nhai bích.
Thán nhĩ bì nô thai,
Hãn câu huyết bất xích.
Chung nhiên bị ngoại sức,
Giá ngự hà sở ích.
Ngã hữu bình kiên dư,
Tiền đồ do chuẩn đích.
Phiên phiên nhập điểu đạo,
Thứ thoát sa điệt ách.Dịch nghĩa
Tôi thương bậc tài giỏi ở Huỳnh Dương,
Khí mới tới hơi nóng hực bốc.
Người hiền nổi tiếng này thận trọng về việc làm quan hay quy ẩn,
Không có sơ xuất trong việc làm.
Ở nơi xa phong tục khác lạ,
Rốt cuộc bực tức vì cảnh trống vắng.
Về nam gặp ông họ Bùi ở Thi Châu,
Khí hậu hợp đất lại không hẻo lánh.
Vịn leo với rễ cây chằng chịt,
Trèo, bò vào hang đá cao vút trên trời.
Một dòng sông từ núi xanh chảy ra,
Thành quách sạch vẻ u sầu.
Nghe ông nói về cái vùng này,
Lòng tôi thấy thích thú.
Cái tục lệ nơi đó hẳn là thuần phác,
Không biết có chủ khách.
Nhà các quan sao mà hoà dịu,
Theo cách đối xử như thời xưa vậy.
Lệnh cho nhà bếp tăng chi phí nhiều,
Bàn chén thường bỏ bừa bãi.
Tuy hiện thời là vào lúc loạn,
Việc quí là vừa xứng lứa.
Ban đêm thường mở hội vui.
Bùi với Trịnh thân thuộc không có xa.
Đống sách có đến vạn quyển,
Đọc lướt qua để tạo ra cái lúc thanh thản.
Bữa trước mang cái nhục móc bạc,
Rậm rì thấy binh khí bầy hàng đều.
Đi dẹp ngược (vội vàng, hấp tấp) vui mừng mà trở về,
Vẽ xuống đất để ghi dấu chỗ mình đã qua.
Lại còn được nghe về chất lượng thổ ngơi vùng đó,
Lại coi trọng đất đai được khai thác.
Viên thứ sử như Khấu Tuân,
Các quận đều thấy luyến tiếc.
Gió bắc thổi khí độc tới,
Lão già yếu này chỉ nghĩ đến việc chống gậy đi loanh quanh.
Nơi bến bị ngăn chặn, lau sậy dao động,
Màn núi mờ mờ đám dây leo đâm thủng.
Thân này cú phải nhờ con, người làm nâng đỡ,
Hứng thú nơi sâu kín cứ vọt ra.
Vừa mới sang đông đã phải lên đường,
Cố dùng bữa ngay cạnh sườn núi.
Tiếc cho ông là loại ngựa thồ,
Mò hôi toát ra không đỏ như máu.
Cuối cùng tuy trang sức bề ngoài có đẹp,
Cưỡi đi có ích gì đâu.
Tôi có cái cáng xoàng đây,
Đi tới phía trước thế mà đúng hẹn lắm.
Lắt léo đi vào nơi cheo leo,
Mà tránh né được các tai hoạ.Bản dịch của Phạm Doanh
Tôi thương Huỳnh Dương tài,
Vừa tới đã khó thở.
Xuất, xử giữ tiếng lành,
Không hề quên gian khổ.
Từ nơi xa lạ về,
Vốn sẵn nhiều trăn trở.
Nam thăm Bùi Thi Châu,
Hợp ý, không bỡ ngỡ.
Leo vịn rễ cây treo,
Lên xuống qua hốc đá.
Núi xanh từ một sông,
Thành quách sạch lo sợ.
Nghe anh kể vùng này,
Khiến tôi lòng hớn hở.
Phong tục ắt hiền hoà,
Chủ khách không cần rõ.
Thắm thiết nhà các quan,
Đối xử như thời cổ.
Lệnh bếp bắt thêm nhiều.
Bàn chén cứ nghiêng đổ.
Thời, tuy gặp loạn ly,
Việc quí được đồng bộ.
Nửa đêm thích hội vui,
Bùi, Trịnh gần có họ.
Đống sách kể hàng ngàn,
Đọc lướt chẳng cần nhớ.
Ngày trước móc bạc hèn,
Thẳng tắp dáo mác lộ.
Lật đật mừng quay về,
Vẽ đất mong nhớ chỗ.
Đã nghe về thổ ngơi,
Lại quí đất mầu mỡ.
Giống thứ sử Khấu Tuân,
Các quận đều ái mộ.
Hơi độc gió bắc lùa,
Lão yếu cần lết bộ.
Chắn bờ lau sậy rung,
Màn núi dây leo trổ.
Hứng cao ghìm cứ vùng,
Thân này nhờ trẻ đỡ.
Khởi hành lúc đầu đông,
Ăn vội bên cạnh hố.
Thương anh loại ngựa thồ,
Mồ hôi máu không đỏ.
Chỉ lo diện bề ngoài,
Chẳng lợi khi cưỡi nó.
Tôi có chiếc kiệu xoàng,
Tiến trước đúng nhịp độ.
Luồn lách lối cheo leo,
Thế mà tránh được vạ.
(Năm 767)
Trịnh Điển Thiết 鄭典設 thăm người bạn thân là Bùi Miện 裴冕 ở Thi Châu (địa bàn sinh hoạt của tộc Thổ Gia 土家 và Miêu 苗, nay là Ân Thi, phía tây nam Hồ Bắc và tây Hồ Nam) vừa trở về. Trong bài này Đỗ Phủ thuật lại chuyến thăm nơi đó qua lời kể của Trịnh Điển Thiết. Bùi Miện (?-770) người Hà Đông (Vĩnh Tế, Sơn Tây), tự Chương Phủ 章甫, làm việc dưới quyền Vương Củng 王鉷. Khi Trịnh bị Lý Lâm Phủ âm mưu giết, Bùi Miện có đưa lời biện giải và sau này chính Bùi Miện cũng bị vạ lây, bị Lý Lâm Phủ đổi đi Thi Châu. Khi Kha Thư Hàn 哥舒翰 giữ chức Hà Tây tiết độ sứ, Bùi Miện được cử làm hành quân tư mã, sau đó theo Túc Tông về Linh Vũ, cùng với Đỗ Hồng Tiệm 杜鴻漸 thỉnh cầu thái tử lên ngôi. Bùi Miện được cử giữ chức tể tướng. Bùi Miện là con người ham khoái lạc, ăn sang, mặc đẹp. Ở đây Đỗ Phủ có ý phê phán Bùi Miện, khác với ý trong bài Ký Bùi Thi Châu 寄裴施州.
[1] Khấu Tuân (? - 36 tr.CN) tự Tử Dực 子翼, người Xương Bình thời Đông Hán, theo vua Quang Vũ phá quân Lục Lâm, được cho làm thái thú Dĩnh Xuyên, Nhữ Nam. Sau một năm, được đổi đi chỗ khác, nhưng dân chúng xin vua cho ở lại.