28/03/2024 15:49Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/05/2015 18:10
Nguyên tác
郊扉俗遠長幽寂,
野水春來更接連。
錦席淹留還出浦,
葛巾欹側未回船。
尊當霞綺輕初散,
棹拂荷珠碎卻圓。
不但習池歸酩酊,
君看鄭穀去夤緣。
Phiên âm
Giao phì tục viễn trường u tịch,
Dã thuỷ xuân lai cánh tiếp liên.
Cẩm tịch yêm lưu hoàn xuất phố,
Cát cân ả trắc vị hồi thuyền.
Tôn đương hà ỷ khinh sơ tán,
Trạo phất hà chu toái khước viên.
Bất đán tập trì quy mính đính,
Quân khan Trịnh cốc khứ di duyên.Dịch nghĩa
Cửa ô xa cách thói tục, xưa nay thường tịch mịch,
Nước chốn quê, mùa xuân về cứ lênh láng.
Buồm gấm thảnh thơi ra khỏi bến,
Khăn the lất phất bay mà thuyền chưa về.
Chén rượu đang trong ráng chiều đẹp vui nên coi thường cái vừa tan nát,
Mái chèo va vào lá sen vỡ tan ra rồi lại tròn.
Một buổi chiều từ nơi tụ họp vui chơi ngất ngưởng trở về,
Các anh thấy cây lúa họ Trịnh đang vươn lên.Bản dịch của Phạm Doanh
Cửa ô tịch mịch vắng vẻ phồn,
Ruộng nước xuân về cứ dập dồn.
Buồm gấm thong dong ra khỏi bãi,
Khăn the lất phất vẫn giương buồm.
Chén đương chuốt lụa, coi thường vỡ,
Chèo đập ngành sen, vỡ lại tròn.
Một buổi rong chơi về ngất ngưởng,
Anh coi lúa Trịnh dáng chon von.
(Năm 768)
Trịnh giám tên là Trịnh Thẩm 鄭審, ở Kinh Châu.