19/04/2024 23:19Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Luân Đài ca phụng tống Phong đại phu xuất sư tây chinh
輪臺歌奉送封大夫出師西征

Tác giả: Sầm Tham - 岑參

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 16/12/2007 15:03

 

Nguyên tác

輪臺城頭夜吹角,
輪臺城北旄頭落。
羽書昨夜過渠黎,
單于已在金山西。
戍樓西望煙塵黑,
漢兵屯在輪臺北。
上將擁旄西出征,
平明吹笛大軍行。
四邊伐鼓雪海湧,
三軍大呼陰山動。
虜塞兵氣連雲屯,
戰場白骨纏草根。
劍河風急雪片闊,
沙口石凍馬蹄脫。
亞相勤王甘苦辛,
誓將報主靜邊塵。
古來青史誰不見,
今見功名勝古人。

Phiên âm

Luân Đài thành đầu dạ xuy giốc,
Luân Đài thành bắc Mao Đầu[1] lạc.
Vũ thư tạc dạ quá Cừ Lê[2],
Thiền Vu dĩ tại Kim Sơn tê (tây).
Thú lâu tây vọng yên trần hắc,
Hán binh[3] truân tại Luân Đài bắc.
Thượng tướng ủng mao tây xuất chinh,
Bình minh xuy địch đại quân hành.
Tứ biên phạt cổ tuyết hải dũng,
Tam quân đại hô Âm Sơn[4] động.
Lỗ tái binh khí liên vân truân,
Chiến trường bạch cốt triền thảo căn.
Kiếm hà phong cấp tuyết phiến khoát,
Sa khẩu thạch đông mã đề thoát.
Á tướng[5] cần vương cam khổ tân,
Thệ tướng[6] báo chủ tĩnh biên trần.
Cổ lai thanh sử thuỳ bất kiến,
Kim kiến công danh thắng cổ nhân.

Dịch nghĩa

Có tiếng tù và báo canh nơi đầu thành Luân Đài,
Sao Mao rơi ở mạn bắc thành này (báo hiệu Hung Nô sẽ thua).
Đêm qua có quân thư từ Cừ Lê mang tới,
Báo rằng chúa Thiền Vu đã tới phía tây núi Kim.
Từ vọng canh thấy khói và bụi đen cả mạn tây,
Quân Hán đóng phía bắc Luân Đài.
Thượng tướng có cờ mao chỉ huy cuộc tây chinh,
Sáng sớm truyền lệnh thổi kèn xuất quân.
Trống đánh ở biên thuỳ phía tây rền vang Tuyết Hải,
Tiếng quân reo chấn động cả Âm Sơn.
Về phía quân địch khí thế cũng lên tới mây,
Nơi chiến trường xương trắng bó trong gốc cỏ.
Gió thổi gấp đưa tuyết đổ xuống vùng sông Kiếm bao la,
Núi đá ở Sa Khẩu đóng băng làm vó ngựa trơn trượt.
Phó tướng (Phong đại phu) vì ơn vua cam chịu gian khổ,
Thề tận trung báo quốc đem lại bình an cho vùng biên cảnh.
Dã sử từ xưa ghi chiến công ai mà chẳng thấy?
Nay ta thấy công danh của ông hơn nguời xưa.

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Đầu thành Luân Đài tù và thổi,
Bắc thành Luân Đài Mao Đầu rớt.
Đêm qua truyền hịch tới Cừ Lê,
Kim Sơn Thiền Vu đã chiếm về.
Lên ngóng phía tây bụi bay đặc,
Luân Đài quân Hán đóng bên bắc.
Tướng phất cờ mao quyết tây chinh,
Xuất quân sáo giục lúc bình minh.
Bốn phía trống chiêng trong biển tuyết,
Ba quân hô lớn Âm Sơn chuyển.
Thành giặc quân dàn ngút chân mây,
Chiến trường xương trắng lẫn cỏ dày.
Biển kiếm gió bay tuyết lớn cuộn,
Đầu bãi đá băng vó ngựa đóng.
Á tướng vì vua khổ bao đường,
Thệ tướng báo ơn dẹp nhiễu nhương.
Chuyện xưa sử sách ai chẳng thấy,
Nhưng nay người trước cũng không bằng.
(Năm 755)

Luân Đài đời Đường là một huyện, nay trong khu tự trị Tân Cương. Phong đại phu tức Phong Thường Thanh 封常清, người đất Bồ châu, giữ chức ngự sử đại phu, phụng mệnh làm phó tướng trong đoàn quân tây chinh.

[1] Chỉ sao Mao Đầu, tức sao Mão trong Nhị thập bát tú, xưa dùng để chỉ người Hồ. "Mao Đầu lạc" ý nói điềm báo người Hồ sẽ bại vong.
[2] Tên một nước ở Tây Vực đời Hán, nay trong khu tự trị Tân Cương.
[3] Ở đây chỉ nhà Đường.
[4] Vốn là một vùng tự trị nay thuộc Nội Mông, ở đây chỉ có nghĩa phiếm chỉ nơi biên cương.
[5, 6] Á tướng, thệ tướng: chỉ chức Nhiếp ngự sử đại phu và Ngự sử đại phu, đời Đường chỉ dưới chức Tể tướng, nên có tên gọi như vậy.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Sầm Tham » Luân Đài ca phụng tống Phong đại phu xuất sư tây chinh