21/04/2024 05:59Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Khổ vũ phụng ký Lũng Tây công kiêm trình Vương trưng sĩ
苦雨奉寄隴西公兼呈王徵士

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 03/01/2015 17:49

 

Nguyên tác

今秋乃淫雨,
仲月來寒風。
群木水光下,
萬象雲氣中。
所思礙行潦,
九里信不通。
悄悄素滻路,
迢迢天漢東。
願騰六尺馬,
背若孤征鴻。
劃見公子面,
超然歡笑同。
奮飛既胡越,
侷促傷樊籠。
一飯四五起,
憑軒心力窮。
嘉蔬沒混濁,
時菊碎榛叢。
鷹隼亦屈猛,
烏鳶何所蒙。
式瞻北鄰居,
取適南巷翁。
掛席釣川漲,
焉知清興終。

Phiên âm

Kim thu nãi dâm vũ,
Trọng nguyệt lai hàn phong.
Quần mộc thuỷ quang hạ,
Vạn gia vân khí trung.
Sở tư ngại hành lạo,
Cửu lý tín bất thông.
Tiễu tiễu tố Sản lộ,
Điều điều thiên Hán đông.
Nguyện đằng lục xích mã[1],
Bối nhược cô chinh hồng.
Hoạch kiến công tử diện,
Siêu nhiên hoan tiếu đồng.
Phấn phi ký Hồ Việt,
Cục xúc thương phiền lung.
Nhất phạn tứ ngũ khởi,
Bằng hiên tâm lực cùng.
Gia sơ một hỗn trọc,
Thì cúc toái trăn tùng.
Ưng chuẩn diệc khuất mãnh,
Ô diên hà sở mông.
Thí chiêm bắc lân cư,
Thủ trích nam hạng ông.
Quải tịch điếu xuyên trướng,
Yên tri thanh hứng chung.

Dịch nghĩa

Thu này cứ mưa dầm dề,
Giữa thu gió lạnh thổi về,
Lùm cây sáng loáng dưới nước,
Trăm nhà trong bầu mây khí.
Điều lo là đi lại bị cản trở,
Chín dặm tin tức không thông.
Cứ lùi lũi theo đường sông Sản,
Trời Hán phương đông xa xa.
Xin cưỡi ngựa cao sáu thước,
Như ngồi bay trên lưng chim hồng lẻ bóng.
Nhận ra ngay mặt công tử,
Hả hê cùng cười nói.
Gắng bay tới cả vùng Hồ lẫn Việt,
Vấn vương thương cho kiếp chim lồng.
Một bữa mà bốn năm lần nhấp nhỏm,
Tựa hiên lòng với sức cạn mòn.
Rau ngon chìm trong bùn đục,
Cúc đương độ nát trong đám cỏ dại.
Chim ưng chim cắt mà cũng còn chịu lép vế,
Quạ diều còn thấp hèn đến đâu.
Cứ thử coi ở láng giềng phía bắc,
Có ông ở ngõ nam.
Mang chiếu ra ngồi câu nơi sông nước dâng,
Sao mà biết được hứng thú hết.

Bản dịch của Phạm Doanh

Thu này mưa lâm râm,
Tháng hai gió lạnh thổi.
Nước sáng dưới lùm cây,
Vạn nhà trong mây khói.
Những lo đi khó khăn,
Chín dặm tin chẳng tới.
Ven sông Sản đi theo,
Trời đông Hán vời vợi.
Cưỡi ngựa sáu thước cao,
Lưng như chim hồng sải.
Công tử gặp mặt liền,
Hớn hở cùng cười nói.
Vùng Hồ, Việt đều bay,
Thương cho cảnh giam trói.
Bữa ăn thấp thỏm hoài,
Dựa hiên lòng bối rối.
Rau non ngập dưới bùn,
Cúc mùa nát trong bụi.
Diều quạ yếu kể gì,
Ưng, cắt còn tránh lối.
Ở xóm bắc, kìa coi,
Ông ngõ nam thấy khoái.
Trải chiếu câu sông ròng,
Sao biết hứng tới cuối.
(Nam 754)

Trưng sĩ chỉ người đã từ quan hoặc được triều đình vời làm quan nhưng không nhận, như Đào Tiềm được gọi là Tĩnh tiết trưng sĩ 靖節徵士.

[1] Theo Chu lễ, ngựa cao từ tám thước trở lên là rồng, từ bảy tới tám là lại, và tới sáu thước là mã.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Khổ vũ phụng ký Lũng Tây công kiêm trình Vương trưng sĩ