26/04/2024 07:28Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Khai Tiên bộc bố
開先瀑布

Tác giả: Tưởng Sĩ Thuyên - 蔣士銓

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thanh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/04/2019 08:32

 

Nguyên tác

瀑布之水源何來?
劃然下裂長峰開。
下士目駭自天落,
絕頂乃有千盤回。
青山斷缺聳雙劍,
元氣直瀉岩頭摧。
飛流已出不肯下,
一線中折分瀠洄。
隱現數折蓄精銳,
失勢一落如奔雷。
跳波亂擊潭水立,
怪物潛伏寧鬐顋。
音聲頃刻逐千變,
萬馬赴敵金鼙催。
天光半壁照空谷,
此地萬古無陰霾。
谽谺積雪掛千仞,
山中猿鶴猶驚猜。
銀花下散布水臺,
混沌鑿破山根隈。
擘窠大字洗不盡,
鐵畫滿地鐫青苔。
太白已往老坡死,
我輩且乏徐凝才。
惡詩走筆不敢寫,
山亭煮汲燒松釵。
明朝竹杖青芒鞋,
凌風踏碎煙雲堆。
飛泉三疊絕倚傍,
坐觀一洗塵氛懷。

Phiên âm

Bộc bố chi thuỷ nguyên hà lai?
Hoạch nhiên há liệt trường phong khai.
Hạ sĩ mục hãi tự thiên lạc,
Tuyệt đính[1] nãi hữu thiên bàn hồi.
Thanh sơn đoạn khuyết tủng Song Kiếm[2],
Nguyên khí[3] trực tả nhan đầu tồi.
Phi lưu dĩ xuất bất khẳng há,
Nhất tuyến trung sách phân oanh hồi.
Ẩn hiện sở chiết súc tinh nhuệ,
Thất thế nhất lạc như bôn tuyết.
Khiêu ba loạn kích đàm thuỷ lập,
Quái vật[4] tiềm phục ninh kỳ tai.
Âm thanh khoảnh khắc trục thiên biến,
Vạn mã phó địch kim bề[5] thôi.
Thiên quang[6] bán bích chiếu không cốc,
Thử địa vạn cổ vô âm ly.
Hàm nha tích tuyết quải thiên nhận,
Sơn trung viên hạc giai kinh sai.
Ngân hoa[7] há tán bố thuỷ đài,
Hỗn độn[8] tạc phá sơn căn ôi.
Phách khoa đại tự tẩy bất tận,
Thiết hoạch mãn địa thuyên thanh đài.
Thái Bạch dĩ vãng Lão Pha tử,
Ngã bối thả phạp Từ Ngưng[9] tài.
Ác thi[10] tẩu bút bất cảm tả,
San đình chử cấp thiêu tùng thoa.
Minh triêu trúc trượng thanh mang hài,
Lăng phong đạp toái yên vân đôi.
Phi tuyền Tam Điệp[11] tuyệt ỷ bạng,
Toạ quan nhất tẩy trần phần hoài.

Dịch nghĩa

Nguồn nước của thác từ đâu về?
Vạch đôi đỉnh núi chảy xuống
Mắt kẻ mọn này sợ từ trời rơi xuống
Đỉnh cao chót vót còn có nghìn khúc quanh
Núi xanh đứt khuyết đỉnh Song Kiếm cao vút
Hào hùng sao đá cứng cũng mòn
Đã tuôn ra không chịu xuống
Một nhánh tách ra uốn lượn vòng
Ẩn hiện mấy khúc nuôi tinh nhuệ
Thất thế khi rơi như tuyết trút
Dậy sóng tung toé nước đầm dựng
Lưng hàm quái vật phục kín
Âm thanh thay đổi nghìn lần trong chốc lát
Như trống thúc muôn ngựa ra trận
Hang rỗng bừng sáng nửa vách
Ở đây muôn thuở không tối tăm
Núi cao to treo nước nghìn nhận
Vượn hạc trong núi đều sợ
Hoa bạc tung toé nơi đài nước
Từ hỗn độn đã đục phá thành núi non
Viết thành nét chữ lớn rửa không hết
Nét cũng ngập đất in rêu xanh
Thái Bạch qua rồi Lão Pha chết
Chúng ta còn thiếu tài như Từ Ngưng
Câu thơ dở bút không dám viết
Múc nước đun bằng lá tùng ở đỉnh núi
Ngày mai giầy vải gậy tre
Không sợ gió bước vỡ đống mây
Suối tuôn ba tầng không nơi tựa
Ngồi xem nước rửa nỗi lòng trần tục

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Nguồn từ đâu đến thành thác nước
Đem đỉnh non vạch dọc thành đôi
Sĩ còm sợ tự trời rơi
Đỉnh cao vút có nghìn nơi lượn vòng
Núi xanh đứt thành Song Kiếm dựng
Hào hùng sao đá cứng cũng mòn
Tuôn ra chẳng chịu xuống luôn
Một dòng rẽ tách uốn luồn quanh co
Nuôi tinh nhuệ tỏ mờ lẩn khuất
Như tuyết trôi thế mất khi rơi
Nước đầm dậy sóng tung trời
Lưng hàm quái vật tăm hơi phục chìm
Âm thanh chốc đã nghìn biến đổi
Ngựa chiến muôn trống nổi trận sông
Hang không mưa vách sáng bừng
Đất này muôn thuở chưa từng tối tăm
Núi treo trước nghìn tầm cao lớn
Ở nơi sâu hạc vượn đều kinh
Đài nước hoa bạc lung linh
Từ khi hỗn độn tạc hình núi non
Nét chữ lớn không mòn nằm đứng
Trên rêu xanh nét cứng hằn dài
Già pha tiên Bạch tuyền đài
Chúng ta nhiếu cả đến tài Từ Ngưng
Câu thơ dở bút ngừng tay vội
Củi thoa tùng đình núi đun trà
Ngày mai giầy vải gậy tre
Chẳng e gió thổi bước đè đống mây
Ba tầng suối không nơi để tựa
Long trần gian nước rửa ngồi xem
Khai Tiên là tên chùa do trung chủ Nam Đường là Lý Cảnh dựng. Thác nước Khai Tiên ở mặt đông đỉnh Hán Dương, Lư Sơn, gồm hai thác, đông bắc là Mã Vĩ thuỷ, tây nam là Bộc Bố thuỷ, hợp lưu chảy ra Thanh Ngọc giáp, trút xuống Long Trì.

[1] Tức đỉnh Hán Dương, đỉnh cao nhất của Lư Sơn, cao 1474m so với mặt nước biển.
[2] Tên đỉnh Lư Sơn. Thác nước từ đỉnh núi trút xuống lưng đỉnh Song Kiếm, trút vào Đại Long đàm, lại trút vào vực lớn.
[3] Vật chất ban đầu (nguyên thuỷ) sản sinh và cấu tạo thành muôn vật trong trời đất, ở đây chỉ khí thế hào hùng của thác nước.
[4] Chỉ thuồng luồng, câu này ý là nước đầm phẳng lặng.
[5] Như kim cổ, trống trận và nhạc khí cổ trong quân bằng kim loại, dùng để chỉ huy quân tiến lui và khích lệ sĩ khí.
[6] Mặt trời chiếu sáng xuống đầm nước, ánh sáng thì từ đầm nước hắt lại, chiếu vào vách đá và mỏm cheo leo xung quanh.
[7] Chỉ bọt trắng khí thác nước trút xuống bắn tung toé lên.
[8] Trạng thái người xưa tưởng tượng trước khi thế giới được mở mang. Câu này ý là thơ của Lý Bạch và Tô Thức tuy hay song đã thành chuyện dĩ vãng.
[9] Thi nhân thời Trung Đường không nổi tiếng. Câu này ý nhà thơ đời nay, đến tầm thường như Từ Ngưng cũng hiếm thấy.
[10] Chữ của Tô Thức: “Thế truyền Từ Ngưng (bộc bố) thi vân: ‘Nhất điều giới phá thanh sơn sắc’. Chí vi trần lậu. Hựu nghị thác Lạc Thiên thi xưng mĩ thử cú, hữu ‘trại bất đắc’ chi ngữ. Lạc Thiên tuy thiệp thiển dị nhi khởi chí thị tai! Mãi thí tác nhất tuyệt: ‘Đế khiển ngâm hà nhất phai thuỳ, Cổ lai duy hữu Trích Tiên từ; Phi lưu tiễn mạt tri đa thiểu, Bất dữ Từ Ngưng tẩy ác thi’.” (Đời truyền bài thơ thác nước của Từ Ngưng có câu: Một đường chia phá màu xanh núi. Rất là quê mùa. Lại vờ làm thơ Lạc Thiên khen hay câu này, thật là một lời không gì để sánh. Lạc Thiên tuy có nông và dễ dàng. Song há lại đến thế sao! Nên đùa làm một tuyệt cú: “Trời sai rủ một nhánh Ngân Giang, Lời của Trích Tiên ai sánh bằng; Nước trút bọt tung nhiều hay ít, Rửa sao thở dở của Từ Ngưng”.)[/bq]
[11] Tức suối ba tầng ở Lư Sơn, bên Hộ Tiên đình ở đông gốc Lư Sơn. Ý câu này là Tam Điệp duyên từ không chút xuống, xung quanh không có gì để tựa.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Tưởng Sĩ Thuyên » Khai Tiên bộc bố