04/05/2024 21:55Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Điếu Thế Tổ bất hạnh thê
吊世祖不幸妻

Tác giả: Trần Huy Liễn - 陳輝璉

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 27/01/2020 22:21

 

Nguyên tác

惟望榮名於世上,
初交先識後來安。
順從不憚山溪險,
蒲柳何辭暑雨艱。
無量英雄皆好殺,
未知蟲蟻豈言冤。
海天難破千重浪,
多病當忘到廣寒。

Phiên âm

Duy vọng vinh danh ư thế thượng,
Sơ giao tiên thức hậu lai an.
Thuận tòng bất đạn sơn khê hiểm,
Bồ liễu hà từ thử vũ gian.
Vô lượng anh hùng giai hiếu sát,
Vị tri trùng nghĩ khởi ngôn oan.
Hải thiên nan phá thiên trùng lãng,
Đa bệnh đương vong đáo quảng hàn.

Dịch nghĩa

Cũng nghĩ muốn lưu lại tiếng vinh hạnh với đời,
Từ ban đầu đoán sau này tất yên ổn.
Nên giữ sự thuận tòng không ngại núi khe hiểm trở,
Dù thân bồ liễu vẫn không từ nắng mưa vất vả.
Ngờ đâu tính của vị anh hùng là hiếu sát,
Biết rõ thân sâu kiến thì kêu oan được với ai.
Nơi biển trời không thể làm phẳng lặng muôn trùng sóng gió,
Thôi đã nhiều bệnh thì đừng mong lên nơi cung trăng cao xa nữa.

Bản dịch của Dương Văn Vượng

Muốn tiếng vinh quang để lại đời,
Đoán rằng sau chắc được yên vui.
Thuận tòng dám ngại khe non hiểm,
Bồ liễu không kê nắng gió vùi.
Chẳng nghĩ anh hùng thì hiếu sát,
Nỗi oan, sâu kiến nói cùng ai.
Biển trời sóng gió yên sao được,
Cung nguyệt mong gì bước tới nơi.
Bài thơ này chép trong sách Nam hải hành ngâm của Nguyễn Trung Ngôn, quan Đốc học Quảng Trị thờ Thành Thái, quê ở thôn Đông Xá, xã Nguyệt Áng, tổng Kim Thạch, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hoá.

Năm 1783, Nguyễn Ánh đẩy thứ phi Lê Thị Dong (Phi Yến) và con của bà (hoàng tử Cải) xuống biển Côn Đảo khi ông sang cầu cứu giặc Xiêm để chống lại Tây Sơn, nay có đền thờ. Câu đối của Nguyễn Khuyến năm 1877 khi làm Bố chính sứ Quảng Ngãi về bà: “Lê thị vọng cao thân tác truỵ đê tòng cổ hữu; Nguyễn hoàng vị thượng nhãn tiền giai hạ khởi kim vô” (Lê thị ngóng xa xôi, thân sẽ rơi sâu, từ trước vẫn vậy; Nguyễn hoàng ngôi cao cả, hoá người thấp kém cho đời khinh).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trần Huy Liễn » Điếu Thế Tổ bất hạnh thê