29/03/2024 22:38Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Khai Nghiêm tự bi ký
開嚴寺碑記

Tác giả: Trương Hán Siêu - 張漢超

Thể thơ: Tản văn; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Trần
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/06/2018 14:30

 

Nguyên tác

像教由設,乃浮屠氏度人方便。蓋欲使愚而無知,迷而不悟者,即此以為回向白業地。乃其徒人之狡獪者,殊失苦空本意,務占名園佳境,以金碧其居,龍象其眾,當世留俗豪右輩,又徒而晌應。故凡天下奧區名土,寺居其半。緇黃皈之,匪耕而食,匪識而衣。匹夫匹婦往往離家室,去鄉里,隨風而靡。

噫,去聖逾遠,道之不明。任師相者,既無周召以首風化,州閭鄉黨。又無庠序以申孝弟之義,斯人安得不皇皇顧而之地,亦勢使然也。維北江路上畔,如兀甲次二社開嚴寺乃李朝月生公主所創也。其面勢則僊山望其南,甜江抱其北,一方形勝,實萃於斯。依昔規模隳祀無幾,於是內人火頭周歲遂倡率鄉人并力重新,繇開祐五年癸酉,越七年乙亥畢工。佛教僧房畢仍舊貫。落成之日闔培境矣耄莫不合掌贊嘆以為月生復生也。戊寅冬自來天長求予文以為記。且曰:『寺故有鐘,金始代石,若非記實,恐泯前蹤』。

予謂:寺廢而興,故非吾意,石立而刻何事吾言。方今聖朝欲暢皇風以救穨俗,異端在可黜,正道當復行。為士大夫者非堯舜之道不陳前,非孔孟之道不著述。顧乃區區與佛氏囁嚅,吾將誰欺。雖然歲常為內密院吏,習於曹事,晚泊士宦,好舍施,固辭厚祿,奉身而退。是吾所願學而未能也。是可書也。

開祐十一年己卯歲二月十五日。正議大夫翰林學士知制誥兼僉知內密院事掌寶賜金魚袋鴉水張漢超升甫記。

Phiên âm

Tượng giáo[1] do thiết, nãi phù đồ thị độ nhân phương tiện. Cái dục sử ngu nhi vô tri, mê nhi bất ngộ giả, tức thử dĩ vi hồi hướng bạch nghiệp địa. Nãi kỳ đồ chi giảo khoái giả, thù thất khổ không[2] bản ý, vụ chiếm danh viên giai cảnh, dĩ kim bích kỳ cư, long tượng kỳ chúng, đương thế lưu tục hào hữu bối, hựu tòng nhi hưởng ứng. Cố phàm thiên hạ áo khu danh thổ, tự cư kỳ bán. Tri hoàng[3] quy chi, phỉ canh nhi thực, phỉ thức nhi y. Thất phu thất phụ vãng vãng ly gia thất, khứ hương lý, tuỳ phong nhi my.

Y! Khứ thánh du viễn, đạo chi bất minh. Nhậm sư tướng giả, ký vô Chu Thiệu[4] dĩ thủ phong hoá, châu lư hương đảng. Hựu vô tường tự dĩ thân hiếu đễ chi nghĩa, tư nhân an đắc bất hoàng hoàng cố nhi chi tha, diệc thế sử nhiên dã. Duy Bắc Hà lộ thượng bạn, Như Ngột giáp Thứ Nhị xã Khai Nghiêm tự nãi Lý triều Nguyệt Sinh[5] công chúa sở sáng dã. Kỳ diện thế tắc Tiên sơn vọng kỳ nam, Điềm giang[6] bão kỳ bắc, nhất phương hình thắng, thực tuỵ ư tư. Y! Tích quy mô, huy dĩ vô kỷ, ư thị Nội nhân hoả đầu[7] Chu Tuế toại xướng suất hương nhân tịnh lực trùng tân, do Khai Hựu[8] ngũ niên Quý Dậu, việt thất niên Ất Hợi tất công. Phật giáo tăng phòng, tất nhưng cựu quán. Lạc thành chi nhật, hạp cảnh trĩ mạo, mạc bất hợp chưởng tán thán, dĩ vi Nguyệt Sinh phục sinh dã. Mậu Dần[9] đông, tự lai Thiên Trường; cầu dư văn dĩ vi ký. Thả viết: “Từ cố hữu chung, kim thuỷ đại thạch; nhược phi ký thực, khủng dẫn tiền tung[10]”.

Dư vị: Tự phế nhi hưng, cố phi ngô ý; thạch lập nhi khắc hà sự ngô ngôn? Phương kim thánh triều, dục sướng hoàng phong dĩ cứu đồi tục; dị đoan[11] tại khả truất, chính đạo đương phục hành. Vi sĩ đại phu giả, phi Nghiêu Thuấn chi đạo bất trần tiền, phi Khổng Mạnh chi đạo bất trước thuật, cố nãi khu khu dữ Phật thị nhiếp nhu, ngô tương thuỳ khi? Tuy nhiên, Tuế thường vi Nội mật viện lại, tập ư tào sự, vãn bạc sĩ hoạn, hiếu xả thí, cố từ hậu lộc, phụng thân nhi thoái, thị ngô sở nguyện học nhi vị năng dã, thị khả thư dã.

Khai Hựu thập nhất niên Kỷ Mão tuế, nhị nguyệt thập ngũ nhật. Chính nghị đại phu, Hàn lâm học sĩ, Tri chế cáo kiêm Thiêm tri nội mật viện sự, Chưởng bảo tứ kim ngư đại nha thuỷ Trương Hán Siêu Thăng Phủ ký.

Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Tượng giáo đặt ra là để đạo Phật được dùng làm phương tiện tế độ chúng sinh; chính vì muốn khiến cho những kẻ ngu mà không giác ngộ, mê mà không tỉnh lấy đó làm nơi trở về với thiện nghiệp. Thế nhưng những kẻ giảo hoạt trong bọn sư sãi lại bỏ mất cái bản ý “khổ không” của đạo Phật mà chỉ chăm lo chiếm những nơi đất tốt cảnh đẹp, tự giát vàng nạm ngọc cho chỗ ở của chúng rực rở, tô điểm cho môn đồ của chúng lộng lẫy như voi rồng. Đương thời bọn có quyền thế, bọn ngoại đạo dua lại đua đòi hùa theo. Vì thế những nơi u nhã thanh kỳ trong nước, chùa chiền đã chiếm mất một nữa. Bọn áo thâm, áo vàng tụ tập ở đấy, không cày mà ăn, không dệt mà mặt; những người thất phu thất phụ thường bỏ cửa nhà, bỏ làng xóm lũ lượt quy theo.

Than ôi! Các bậc thánh hiền ngày càng xa cách, chính đạo ngày càng lu mờ; những kẻ làm thày, làm tướng đã không có bậc Chu, Thiệu để dẫn đầu việc giáo hoá, các xóm thôn châu huyện lại không có trường để dạy dỗ, nghĩa hiếu thảo hào thân, như thế thì người ta trách sao khỏi hoang mạng, ngoảnh nhìn rồi bỏ đi theo đường khác. Đó cũng là thế tất nhiên. Chùa Khai Nghiêm ở xã Thứ Nhị, tổng Như Ngột, miền trên lộ Bắc Hà là ngôi chua do công chúa Nguyệt Sinh triều Lý xây dựng. Xung quanh: núi Tiên Sơn chầu phía Nam, sông Điềm Giang bao phía Bắc; cảnh đẹp cả một vùng thực đã quy tụ ở nơi đây. Nhưng tiếc thay vi mô xây dựng trước đã đỗ nát chẳng còn được bao nhiêu. Lúc đó Chu Tuế làm chức Nội nhân hoả đầu dắt dẫn dân làng góp công xây dựng lại. Khởi công từ năm Quý Dậu niên hiệu Khai Hựu thứ năm, đến năm Ất Hợi niên hiệu Khai Hựu thứ bảy thì xong. Trong chùa điện Phật, phòng tăng đều theo kiểu cũ. Ngày làm lễ khánh thành, già trẻ trong cả một vùng đều chắp tay khen ngợi, tưởng như công chúa Nguyệt Sinh sống lại. Mùa đông năm Mậu Dần, Chu Tuế thân hành đến phủ Thiên Trường xin ta viết cho bài ký và nói: “Chùa này xưa vốn có chuông, nay mới thay bằng bia đá. Nếu không ghi lại sự tích, sợ sau này mai một mất dấu xưa”.

Ta nói: Chùa hỏng lại xây đã ngoài ý muốn của ta thì việc dựng bia khắc chữ có can hệ gì đến văn từ của ta? Vả lại ngày nay thánh triều muốn mở mang giáo hoá để sửa đổi phong tục đồi bại. Dị đoan đáng phải truất bỏ, chính đạo phải được phục hưng. Đã là kẻ sĩ đại phu, nếu không phải đạo Nghiêu Thuấn, không bài tỏ trước vua; không phải đạo Khổng Mạnh, không trước thuật thế mà ta lại vương vương tự đắc, bàn bạt dài dòng về đạo Phật, ta sẽ lừa dối ai? Tuy nhiên, Chu Tuế, đã từng làm trong Nội mật viện, thông thạo việc ty tào; đến lúc tuổi già khinh đường sĩ hoạn, ham việc bố thí, cố từ bổng lộc, tự xin về ẩn dật để được an nhàn, thì đó là việc ta muốn học mà chứa được. Cho nên đó cũng là việc đáng ghi chép vậy.

Ngày 15 tháng Hai năm Kỷ Mão, niên hiệu Khai Hựu thứ mười một (1339). Chính nghị đại phu, Hàn lâm học sĩ, Tri chế cáo kiêm Thiên tri nội mật viện sự Chưởng bảo tứ kim ngư đại nha thuỷ Trương Hán Siêu tự Thăng Phủ viết.
Bia chùa Khai Nghiêm ở thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, kí hiệu thác bản 23637-38. Bia cao 117cm, rộng 40cm, trán hình rồng chầu vào ô chữ ở giữa, diềm trang trí dây hoa cúc. Toàn văn chữ Hán, mờ một số chữ. Văn bia do Trương Hán Siêu soạn, khắc năm Khai Hựu thứ 11 (1339), đến năm Cảnh Thịnh thứ 7 (1797) khắc lại. Văn bia này từng được chép trong Hoàng Việt văn tuyển (ký hiệu A.3163/1-3), lại có thể tìm thấy văn bia này được chép trong Thế thứ kiến văn tùng ký 世次見聞叢記 (A.326/1-2, soạn năm Minh Mệnh thứ 14 - 1833).

[1] Thuật ngữ đạo Phật, chỉ phương pháp truyền dạy bằng hình tượng. Phật giáo muốn cho chúng sinh dễ hiểu đã dùng những hình tượng để thuyết giáo như thế giới Tây Thiên thì có nhà ngọc, thềm pha lê, trời ấm áp; địa ngục thì có quỷ sứ xẻ cưa, nấu vạc dầu.
[2] Tinh thần cơ bản của Phật giáo là làm cho người ta hiểu tất cả đều là không (không có ta, không có mọi vật), tất cả là khổ (giàu cũng khổ, nghèo cũng khổ, vui buồn sung sướng đều khổ).
[3] Áo của các nhà sư thường có màu nâu, màu vàng.
[4] Chu là Chu Công, tên là Đán và Thiệu là Thiệu Công, tên là Thích, là con của Văn Vương. Hai người đều là hiền thần của nhà Chu, rất có công xây dựng và bảo vệ nền văn hoá chính trị của nhà Chu thời đó.
[5] Chưa rõ con vua nào triều Lý.
[6] Một khúc của sông Cầu ngày nay.
[7] Một chức quan hầu cận vua. Có người cho hoả đầu trông coi việc ăn uống của vua, như theo Đại Việt sử ký toàn thư. Thời Lý Thần Tông, có những Nội nhân hoả đầu làm Thái phó, tước Đại liêu ban. Như vậy Nội nhân hoả đầu cũng là chức quan to.
[8] Niên hiệu vua Trần Hiến Tông (1329-1341). Chùa bắt đầu xây dựng lại từ 1333 đến 1335 thì xong.
[9] Năm 1338.
[10] Câu này ý nói chùa Khai Nghiêm trước có bài ký khắc trên chuông nay định thay bằng thạch bi (bia đá).
[11] Nho giáo dùng từ này để chỉ những tư tưởng đối lập với đạo Nho như Phật, Lão.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trương Hán Siêu » Khai Nghiêm tự bi ký