27/04/2024 06:25Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bộ vận lão sĩ Đỗ Xuân Khôi “Cung hạ Đồng Xuân doãn Trần đại nhân” hoạ chi
步韻老士杜春魁恭賀同春尹陳大人和之

Tác giả: Trần Đình Tân - 陳廷賓

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi tôn tiền tử vào 21/02/2019 21:20

 

Nguyên tác

同春銓到宦為家,
美譽慚無麥穗歌。
一字山邊鳴綠綺,
三江橋下汎凌波。
永和恰值三春泰,
霑德頻臨五福多。
海富河平風月好,
高峰乘興訪鳩車。

Phiên âm

Đồng Xuân thuyên đáo hoạn vi gia,
Mỹ Dự tàm vô Mạch tuệ ca[1].
Nhất tự sơn biên minh Lục Ỷ[2],
Tam Giang kiều hạ phiếm lăng ba.
Vĩnh Hoà kháp trị tam xuân Thái[3],
Triêm Đức tần lâm ngũ phúc[4] đa.
Hải Phú, Hà Bình phong nguyệt hảo,
Cao Phong thừa hứng phỏng cưu xa[5].

Dịch nghĩa

Được triều đình chọn mà đổi ta đến huyện Đồng Xuân thì lấy nơi làm quan làm quê hương,
(Đến) thôn Mỹ Dự (có nghĩa là lời khen tốt đẹp) thì thẹn không được như người trong bài hát bông lúa mạch.
Bên bìa núi chữ nhất gảy cây đàn Lục Ỷ,
Dưới cầu sông Ba thả thuyền đùa với sóng nước.
(Tới) thôn Vĩnh Hoà vừa đúng lúc xuân về, ba hào dương mở đầu quẻ Thái,
Thôn Triêm Đức từng được năm phước lành.
Gió và trăng ở hai thôn Hải Phú, Hà Bình đều tốt lành,
Nhân hứng đến thôn Cao Phong tìm chỗ ở đậu.

Bản dịch của Đặng Quý Địch

Đồng Xuân đổi tới, hoạn vi gia
Mỹ Dự thẹn không “Mạch tuệ ca”
Đàn Lục gảy bên non chữ một
Thuyền lan tha thướt cầu sông Ba
Ba dương mở vận Vĩnh Hoà gặp
Năm phước vào nhà Triêm Đức đa
Hải Phú, Hà Bình trăng gió tốt
Cao Phong hứng đến hỏi thuê nhà
Tiểu dẫn: “Mỗi cú quân dụng thôn danh hoặc địa danh” 每句均用村名或地名 (Mỗi câu đều dùng tên thôn hoặc tên đất). Các địa danh được in nghiêng trong phần phiên âm.

[1] Theo Hậu Hán thư, Trương Kham làm thái thú Ngư Dương, khuyến khích nâng đỡ dân chúng chăm lo nông nghiệp khiến mọi người no đủ. Họ đặt bài ca rằng: “Tang vô phụ chi, Mạch tuệ lưỡng kỳ; Trương quân vi chánh, Lạc bất khả chi!” (Cây dâu không nhánh phụ, Bông lúa có hai chẽ; Ông Trương làm việc nước, Niềm vui khôn xiết kể!)
[2] Tên cây đàn của Tư Mã Tương Như đời Hán. Có người cho là đàn của Thái Ung đời Hán mạt.
[3] Theo Kinh Dịch, tượng của quẻ Địa Thiên Thái (gọi tắt là quẻ Thái) thì trên là quẻ Khôn ☷ (trỏ đất), dưới là quẻ Càn ☰ (trỏ trời) hợp thành quẻ Thái. Quẻ Càn có ba vạch liền tức ba hào Dương nên gọi là tam Dương khai Thái (ba hào Dương mở ra quẻ Thái, cũng có nghĩa ba hào Dương mở vận Thái hoà). Ứng vào thời lịnh thì quẻ Thái thuộc về tháng Giêng nên quẻ Thái cũng mở đầu năm mới.
[4] Năm phước là sống lâu, mạnh khoẻ, chết già, nhiều điều lành, giàu có.
[5] Chữ này còn đọc là “cư” đồng âm với “cư” là ở. Cho nên cưu cư có nghĩa chim tu hú không làm được tổ đành ở nhờ tổ chim thước. Nghĩa bóng là ở đậu nhà người ta. Bản Lê Bính câu cuối này chép là: “Cao phong thời hứng dụng khinh xa” 高峰 時興用輕車 (Cao phong lúc hứng dùng xe nhẹ).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trần Đình Tân » Bộ vận lão sĩ Đỗ Xuân Khôi “Cung hạ Đồng Xuân doãn Trần đại nhân” hoạ chi