20/04/2024 13:58Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Di Sơn tuý ca
夷山醉歌

Tác giả: Uông Nguyên Lượng - 汪元量

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nam Tống, Kim
Đăng bởi tôn tiền tử vào 19/10/2018 21:48

 

Nguyên tác

楚狂醉歌歌正發,
更上梁臺望明月。
朔風獵獵吹我衣,
絕代佳人皎如雪。
搥羯鼓,彈箜篌,
烹羊宰牛坐糟丘,
一笑再笑揚清謳。
遙看汴水波聲小,
錦櫂忘還事多少。
昨日金明池上來,
艮岳凄涼麋鹿繞。
麥青青,黍離離,
萬年枝上鴉亂啼。
二龍北狩不復返,
六龍南渡無還期。
金銅淚迸露盤濕,
畫闌桂柱酸風急。
鳩居鵲構蒼隼入,
蛇出燕巢白狐立。
東南地陷妖氣黑,
雙鳳高飛海南陌。
吳山日落無沈沈,
母子同行向天北。
關河萬里雨露深,
小儒何必悲苦辛。
歸來耳熱忘頭白,
買笑揮金莫相失。
呼奚奴,吹觱篥,
美人縱復橫,
今夕復何夕。
楚狂醉歌歌欲輟,
老猿為我啼竹裂。

Phiên âm

Sở cuồng[1] tuý ca ca chính phát,
Cánh thướng Lương Đài[2] vọng minh nguyệt.
Tây phong lạp lạp xuy ngã y,
Tuyệt đại giai nhân giảo như Tuyết.
Chuỳ hạt cổ[3], đàn không hầu[4],
Phanh dương tể ngưu toạ tào khâu[5],
Nhất tiếu tái tiếu dương thanh âu.
Dao khan Biện thuỷ ba thanh tiểu,
Cẩm lãm[6] vong hoàn sự đa thiểu?
Tạc nhật Kim Minh trì[7] thượng lai,
Cấn Nhạc[8] thê lương my lộc nhiễu.
Mạch thanh thanh, thử ly ly[9],
Vạn niên chi[10] thượng nha loạn đề.
Nhị long[11] bắc thú bất phục phản,
Lục long[12] nam độ vô hoàn kỳ.
Kim đồng[13] lệ bính lộ bàn thấp,
Hoạ lan quyết trụ toan phong cấp[14].
Cưu cư thước cấu[15] thương chuẩn nhập,
Xà xuất yến sào bạch hồ lập.
Đông nam địa hãm yêu khí hắc,
Song phụng cao phi Hải Nam mạch.[16]
Ngô Sơn nhật lạc[17] vô trầm trầm,
Mẫu tử đồng hành[18] hướng thiên bắc.
Quan hà vạn lý vũ lộ thâm,
Tiểu nho hà tất bi khổ tân.
Quy lai nhĩ nhiệt vong đầu bạch,
Mãi tiếu huy kim mạc tương thất.
Hô hề nô, xuy tất lật.
Mỹ nhân tung phục hoành,
Kim tịch phục hà tịch?
Sở cuồng tuý ca ca phục chuyết,
Lão viên vị ngã đề trúc liệt.

Dịch nghĩa

Sở cuồng say hát, hứng hát đang cao
Bước lên Lương Đài ngắm trăng sáng
Gió tây hiu hiu thổi vào áo ta
Người đẹp nhất đời trắng như tuyết
Tiếng trống hạt, đàn không hầu
Thui dê mổ trâu ngồi trên đống bã rượu
Cười, cười nữa cất giọng hát trong trẻo
Nhìn xa, dòng Biện thuỷ vọng lại tiếng sóng nhỏ
Giây thuyền gấm không về, việc nhiều hay ít?
Hôm qua lại đến lượt Kim Minh trì
Cấn Nhạc buồn tẻ, hươu nai ngơ ngác
Lúa mạch xanh xanh, lúa nếp trĩu bông
Trên cành cây vạn niên quạ kêu nhớn nhác
Hai rồng bắc thú (đi săn) không về
Sáu rồng nam độ không ngày trở lại
Lệ chảy ra từ vàng đồng, mâm hứng sương ướt
Lan can vẽ, cột quế gió buồn thổi gấp
Chim cưu ở tổ chim thước, chim cắt vào
Rắn trườn ra ngoài tổ én, cáo trắng đứng
Đất đông nam mất, yêu khí đen ngòm
Hai phượng cao bay về biển nam
Núi Ngô chiều xuống trời trầm trầm
Hai mẹ con cùng đi lên mạn bắc
Đường xa vạn dặm mưa sương dầy
Lòng của một tiểu nho hà tất phải buồn khổ
Khi về tai nóng quên đầu bạc
Đừng để lỡ mua cười, cứ tiêu tiền
Gọi hề nô, thổi sáo tất lật
Người đẹp ngả nghiêng
Đêm nay rồi đến đêm nào nữa?
Sở cuồng say hát muốn dừng
Vượn già hãy vì ta hú xé trúc

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Sở cuồng say ca vang hứng mạnh
Lên Lương Đài ngắm ánh trăng xa
Gió tây phây phẩy áo ta
Tuyệt thế người đẹp như là tuyết pha
Tiếng bập bùng gió đưa trống hạt
Hoà bổng trầm réo rắt không hầu
Mổ trâu dê uống thật nhiều
Cười rồi cười nữa cất cao giọng nào!
Ngắm Biện Thuỷ rì rào nước chảy
Gấm làm giây thuyền mãi không về?
Hôm qua đến Kim Minh trì
Tiêu điều Cấn Nhạc vật vờ hươu nai
Nếp trĩu bông xanh tươi mầu mạch
Cây vạn niên nhớn nhác quạ kêu
Hai rồng lên bắc từ lâu
Sáu rồng nam độ có đâu ngày về
Lộ bàn ướt tiên sa giọt lệ
Lan can hồng cột quế gió gào
Nhà cưu thước ở cắt nhào
Rắn ra tổ én cáo vào thay chân
Đông nam mất đùn đen yêu khí
Hai phượng bay góc bể trời nam
Núi Ngô chiều xuống trời trầm
Mẹ con đất bắc cất chân âm thầm
Đường vạn dặm mưa dầm sương xuống
Lòng tiểu nho đâu uổng lo âu
Về tai nóng nhãng bạc đầu
Mua cười đừng lỡ có đâu tiếc tiền
Gọi hề nô, vút lên tất lật
Người đẹp bên, đêm biết còn không?
Sở cuồng say hát gần xong
Vượn già xé trúc hú lòng vì ta
Di Sơn ở Biện Kinh. Năm Chí Nguyên thứ 23 nhà Nguyên, tác giả với thân phận là quan hàn lâm phụng sử (vâng sai), tế thay ngũ nhạc (năm quả núi lớn ở bốn phương và vùng giữa Trung Quốc: đông nhạc Thái Sơn, tây nhạc Hoa Sơn, nam nhạc Hành Sơn, bắc nhạc Hằng Sơn, trung nhạc Tung Sơn) và tứ độc (bốn con sông: Trường Giang, Hoài Hà, Hoàng Hà và Tế Thuỷ, đều từ phát nguồn chảy thẳng ra biển nên gọi là tứ độc), hành trình đến một vạn năm nghìn dặm. Sau khi hành hương ở nam nhạc, đường đi qua Di Sơn, trông thấy những dấu vết cũ, xúc cảnh sinh tình, kỷ niệm buồn dâng lên trong lòng tác giả. Thơ với đề là “tuý ca”, viết ra không kiêng kỵ gì cả.

[1] Chỉ Tiệp Dư. Ở đây tác giả tự ví mình là Sở cuồng.
[2] Lương Hiếu Vương nhà Hán xây Lương Uyển, trong đó có đài cao.
[3] Nhạc cụ của dân tộc Hạt ngày xưa, các bộ nhạc như khâu tư, cao xương đời Đường đều dùng.
[4] Một loại đàn cổ, ít nhất có năm dây, nhiều nhất có 25 dây.
[5] Bã rượu tích lại thành núi gọi là tào khâu. Toạ tào khâu có nghĩa là uống thoải mái.
[6] Dây kéo thuyền bằng gấm. Theo ghi chép của Đại Nghiệp thập di, Tuỳ Dạng Đế đến Dương Châu, ngự trên thuyền rồng, Tuyên Phi đi trên thuyền phượng, buồm gấm giây mầu, cùng cực xa hoa… Mỗi thuyền kén một nghìn con gái xinh đẹp, bơi mái chèo chạm vàng, gọi là điện ngự nữ; nơi buồm gấm đi qua, hương thơm toả xa mười dặm. Lần thứ ba Tuỳ Dạng Đế đi chơi Giang Đô, kết quả bị Vũ Văn Hoá Cập phát động binh biến, dùng dây tơ thắt chết ở Giang Đô. Ở đây dùng Tuỳ Dạng Đế để ví với Tống Huy Tông, cả hai đều cùng sa cực dục.
[7] Ở phía tây bắc cửa Tây Trịnh, Biện Kinh nhà Tống, chu vi chín dặm. Chu Thái Tông đời Ngũ Đại đào để huấn luyện thuỷ quân. Tống Huy Tông xây điện các ở xung quanh hồ này thành nơi ăn chơi. Quân Kim vào Biện Kinh, nơi này tàn trong binh lửa.
[8] Núi đất do Tống Huy Tông đắp ở góc đông bắc thành Biện Kinh, trên trồng cây quý và đặt đá lạ.
[9] Kinh thi - Vương phong có thiên Thử ly tả nỗi lòng nhớ nước cũ.
[10] Tên gọi cây cối trong vườn ngự uyển.
[11] Chỉ Huy Tông, Khâm Tông, hai người bị quân Kim bắt chết ở phương bắc.
[12] Chỉ xe vua, thắng sáu ngựa. Ngựa dài tám thước gọi là long. Ở đây chỉ Khang Vương (sau này là Tống Cao Tông) nam độ.
[13] Năm Thanh Long thứ 5 (237), Nguỵ Minh Đế hạ chiếu cho quan trong cung đem xe đến Trường An, rỡ lấy người tiên nâng lộ bàn (mâm hứng sương) của Hán Vũ Đế, muốn đem về đặt trước điện ở Lạc Dương. Quan trong cung đã rỡ mâm ra, khi sắp đi người tiên bằng đồng sa lệ. Xem Tam Quốc chíNguỵ thưMinh Đế kỷ.
[14] Liên quan đến việc trên, Lý Hạ đời Đường dựa vào đây làm bài Kim đồng tiên nhân từ thán ca, tả về cảm khái mất còn suy thịnh có hai câu “Nguỵ quan khiên xa chỉ thiên lý, Quan Đông toan phong xạ mâu tử” (Quan Nguỵ đem xe từ nghìn dặm, Quan Đông gió xót thổi vào mắt).
[15] Kinh thiThiệu NamThước sào: “Duy thước hữu sào, duy cưu cư chi” (Chim thước có tổ, Chim cưu vào ở). Ở đây, thước chỉ Tống, cưu chỉ Kim, cắt chỉ Nguyên. Câu tiếp sau cũng cùng nghĩa như câu trên.
[16] Chỉ nhà Tống mất. Song phụng cao phi chỉ hai người con của Tống Độ Tông là Ích Vương Triệu Thị và Quảng Vương Triệu Bính, khi Lâm An bị hãm trốn đến Ô Châu, Phúc Châu.
[18] Chỉ Toàn thái hậu và Đế Hiển bị Bá Nhan bắt giải về Đại Đô.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Uông Nguyên Lượng » Di Sơn tuý ca