21/04/2024 03:04Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Trì giới kiêm nhẫn nhục
持戒兼忍辱

Tác giả: Tuệ Trung thượng sĩ - 慧中上士

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Trần
Đăng bởi Vanachi vào 01/10/2008 04:50

 

Nguyên tác

無常諸法行,
心疑罪便生。
本來無一物,
非種亦非萌。

日日薱境時,
景景從心出。
心境本來無,
處處巴羅密。

喫草與喫肉,
種生各所食。
春來百草生,
何處見罪福。

持戒兼忍辱,
招罪不招福。
欲知無罪福,
非持戒忍脣。

如人上樹時,
安中自求危。
如人不上樹,
風月何所為?

Phiên âm

Vô thường chư pháp hành,
Tâm nghi tội tiện sinh.
Bản lai vô nhất vật,
Phi chủng diệc phi manh.

Nhật nhật đối cảnh thời,
Cảnh cảnh tòng tâm xuất.
Tâm cảnh bản lai vô,
Xứ xứ ba-la-mật[1].

Khiết thảo dữ khiết nhục,
Chủng sinh các sở thực.
Xuân lai bách thảo sinh,
Hà xứ kiến tội phúc?

Trì giới kiêm nhẫn nhục,
Chiêu tội bất chiêu phúc.
Dục tri vô tội phúc,
Phi trì giới nhẫn nhục.

Như nhân thượng thụ thì,
An trung tự cầu nguy.
Như nhân bất thượng thụ,
Phong nguyệt hà sở vi?

Dịch nghĩa

Tất cả mọi hiện tượng đều luôn luôn biến diệt,
Khi “tâm” đã ngờ thì “tội” liền sinh ra.
Xưa nay không có một vật nào hết thảy,
Chẳng có gốc cũng chẳng có mầm để cho chúng xuất hiện.

Hàng ngày khi ta đối diện với ngoại cảnh,
Thì cảnh này cảnh nọ đều từ tâm sinh ra,
“Tâm” và “cảnh” vốn đều là không,
Khắp nơi đều là ba-la-mật.

Ăn thịt và ăn cỏ,
Chúng sinh loài nào có thói quen của loài đó.
Như mùa xuân đến, trăm hoa cỏ sinh sôi,
Có chỗ nào nhìn thấy tội hay phúc đâu?

Trì giới và nhẫn nhục,
Chỉ chuốc tối chứ không chuốc phúc.
Muốn biết không tội phúc,
Thì đừng trì giới, nhẫn nhục.

Như khi người trèo lên cây,
Là đang trong bình an lại tự tìm lấy nguy hiểm.
Nếu người ta không trèo cây,
Thì gió lay, trăng dọi, có làm gì được.

Bản dịch của Huệ Chi

Mọi pháp đều biến diệt,
Tâm ngờ tội liền sinh.
Xưa nay không một vật,
Mầm mống hỏi đâu thành?

Ngày ngày khi đối cảnh,
Cảnh cảnh từ tâm ra.
Cảnh, tâm không có thật,
Chốn chốn bà-la-mật.

Ăn thịt và ăn cỏ,
Chúng sinh từng loài đó.
Xuân về cây cỏ sinh,
Hoạ phúc nào đâu có?

Trì giới và nhẫn nhục,
Chuốc tội chẵng chuốc phúc.
Muốn biết không tội phúc,
Đừng trì giới nhẫn nhục.

Như khi người leo cây,
Đang yên bỗng tìm nguy.
Không trèo lên cây nữa,
Trăng gió làm gì được?
[1] Phiên âm thuật ngữ tiếng Phạn pāramita Ba-la-mật-đa 波羅蜜多dịch nghĩa là Đáo bỉ ngạn 到彼岸 (đạt đến bờ bên kia) hay Độ vô cực 度無極 hay Sự cứu cánh 事究竟 (chỗ tối hậu của sự việc) tổng hợp các nghĩa là sự toàn hảo chỉ các công hạnh của của một vị Bồ Tát trong quá trình tu tập theo Đại thừa. Theo Phật giáo Đại thừa, kinh Diệu pháp liên hoa thì có sáu Ba-la-mật (sáu điều toàn hảo). Bài này tác giả bàn về hai Ba-la-mật là Giới ba-la-mật và Nhẫn ba-la-mật.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Tuệ Trung thượng sĩ » Trì giới kiêm nhẫn nhục