21/04/2024 00:25Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Sài Gòn

Tác giả: Nguyễn Liên Phong - 阮蓮峰

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 08/01/2019 16:13

 

Sài Gòn phong cảnh thi:
Khen bấy Sài Gòn định giới cương,
Lăng xăng ngõ ngách dọc ngang đường.
Cột cờ Thủ ngữ xây trăm trượng,
Trại lính Hội đồng trấn một phương.
Dinh dãy cửa nhà chen thứ lớp,
Bạc vàng su lúi đỗi cang thường.
Phiền ba xiết kể nay thanh lịch,
Lễ nghĩa ngày xưa chạnh nỗi thương.


Sài Gòn kinh ký phong cương,
Quan quân đô hội cầu đường lịch xinh.
Nguyên xưa Gia Định tỉnh thành,
Biển dâu đổi cuộc nay thành phiền ba.
Nhứt là đường Ca-ti-na (Catinat),
Hai bên lầu các phố nhà phân minh.
Bực thềm lót đá sạch tinh,
Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đều.
Máy may mấy chỗ quá nhiều,
10. Các tiệm tủ ghế dập dìu phô trương.
Đồ sành đồ cẩn đồ đương,
Đồ thêu đồ chạm chữ thường thiếu chi.
Những đồ Đại Pháp, Huê Kỳ,
An Lê, Nhựt Bổn, món gì cũng sang.
Hàng tây các sắp nhẩy tràng,
Xiêm, Mên, Bắc Thảo, đồ đoàn bố vi.
Chực đường có trẻ cu-li (coolie),
Kêu đâu sẵn đó đem đi lẹ làng.
Lớp thời xuống bến Nam Vang,
20. Lớp qua Khánh Hội lớp sang Nhà Rồng.
Lớp xe về lối ngoài trong,
Lớp đi theo dõi mấy ông dọn nhà.
Nhà in, nhà thuốc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà Lạc-xon (Fauction).
Chỗ ăn chỗ ngủ đều ngon,
Thong thả lại còn uống rượu đánh lăng.
Phong lưu cách điệu ai bằng,
Đường đi trơn láng đèn giăng sáng loà.
Thứ năm thứ bảy thứ ba,
30. Với đêm chúc nhựt hát nhà hát tây.
Nước nào tục nấy cũng hay,
Tiếng đờn tiếng hát nghe say tánh tình.
Nhà hát cất giữa châu thành,
Hoạ đồ lấy kiểu bên thành Ba-ri (Paris).
Nửa năm hát tại Nam kỳ,
Nửa năm về xứ Ba-ri của mình.
Thánh năm cất gánh qui trình,
Tháng mười thời lại Nam hành một khi.
Coi thì cũng một đường đi,
40. So trong lịch sự dầu bì Ti-na (Catinat).
Khi nào có rước quan gia,
Với khi lễ lớn thiệt là kỹ cang.
Đôi bên cờ dựng rỡ ràng,
Tuần binh sắc phục chững chàng nghi dung.
Ro-đôm (Norodom) bốn phía dựng cùng,
Với trước nhà hát một vùng Bô-na (Bonard).
Bóng cây im mát diềm già,
Nhà thờ Thiên Chúa ngay mà trung tim.
Đá xây bốn phía vách thềm,
50. Mặc nền hoa thạch trơn êm làu làu.
Lầu chuông chót vót vọi sâu,
Hai cây thánh giá hai đầu trên cao.
Đồng hồ chỉ đúng khắc sao,
Người qua kẻ lại nhắm vào phân minh.
Đức Bà tượng đá trắng tinh,
Mấy đầu cột đắp hoa hình khuôn viên.
Tốn dư muôn triệu bạc tiền,
Lập thành cơ chỉ vạn niên thái bình.
Mỗi tuần xem lễ đọc kinh,
60. Tiếng đờn tiếng hát âm thinh rập ràng.
Hai bên thứ lớp ghế bàn,
Sạch sẽ kỹ càng đủ sắc quan dân.
Vừa khi thái tuế Nhâm Dần,
Tháng hai mồng một tảo thần bày ra.
Ngày tây mồng mười tháng ba,
Nhứt thiên cửu bách lẻ mà hai năm.
Bảy giờ xe ngựa xăm xăm,
Các quan thẳng tới thảy khâm kính đều.
Y quan rực rỡ dập dìu,
70. Đức cha trần thiết lễ điều tạ an.
Mấy ông chức lớn ngôi sang,
Đít-cha (Discours) miệng đọc kỹ cang tỏ nhầm.
Người coi đô hội ngàn trăm,
Thấy hình cha cả tay cầm bức thơ.
Hình Đông cung Cảnh bé thơ,
Coi inh hồi nhỏ ngẩn ngơ Ri-thành (Pondichéry).
Dung nghi phưởng phất như sanh,
Mĩa mai hổ bộ long hành tốt thay.
Biết bao ân ngỡi Đức thầy,
80. Chịu lời ký thác nặng dày công lao.
Muôn trùng tách dặm ba đào,
Uống sương ăn tuyết chẳng nao núng lòng.
Gương trung chói rạng hình đồng,
Tay dìu Thái tử Đông cung chẳng rời.
Tích xưa tạc để đời đời,
Phận là Quân tể tình thời sư – sanh.
Trải qua mấy lúc cải canh,
Cơ trời đã khiến hư dinh tuần hườn.
Của dân ba vạn có hơn,
90. Phụ thêm nhà nước ra ơn giúp tiền.
Thánh đường cội gốc nam thiên,
Đúc nên hai tượng dựng liền trước sân.
Gẫm duyên hội ngộ có phần,
Đâu quan Cần chánh Nguyễn Thân mới vào.
Trọng niềm Pháp, Việt, ban giao,
Nhớ xưa sự tích lòng nào phui pha.
Lầu Đức Giám mục thẳng qua,
Cứng ba trăm bạc gọi là thảo đơn.
Nặng nề vì nghĩa vì nhơn,
100. Vì nơi danh giá vì cơn tao phùng.
Tiệc bày thết đãi Nguyễn công,
Chủ tân thù tạc khiêm cung đủ điều.
Hậu tình quá nỗi kỉnh yêu,
Mừng vui chưa phỉ bấy nhiêu chuyện trò.
Ngài đà tách dặm trường đồ,
Du-Me (Doumer) Tổng thống tàu đò sang Tây.
Đều là giúp nước hết ngay,
Trí mưu thâm viễn phải tay đại thần.
Bên nhà Thiên Chúa rất gần,
110. Có toà giây thép coi phần điển thơ.
Hạt kia hạt nọ giấy tờ,
Kẻ lui người tới âm thơ dập dìu.
Man-da (mandat) chẳng biết bao nhiêu,
Gởi đem đồ đạc cũng nhiều nơi đi.
Mua có tín chỉ thiếu chi,
Chánh trung có chỗ kêu thì thùng thơ,
Chẳng hề trẽ nãi đợi chờ,
Lon-ton (Facteur) cứ lệ tới giờ soạn đam.
Ví dầu đông bắc tây nam,
120. Đâu đâu cũng thấu cơ giam nhiệm mầu.
Thiệt là trí hoá cơ cầu,
Làm ra giản tiện lẹ mau dân nhờ.
Biên Hoà còn dụng xe tờ,
Mới bày bây giờ xe máy Tây Ninh.
Toàn quyền tổng thống đại dinh,
Tứ vi song sắt tiền đình nghiêm trang.
Ngoài thời có cửa tam quan,
Trong thời lầu các dọc ngang nhiều từng.
Đá bông xây lót dưới chưn,
130. Lên thang xuống cấp sáng trưng đêm ngày.
Mấy người liêu thuộc chơn tay,
Mỗi tuần chúc nhựt một ngày nghỉ công.
Ngang qua đường Mặt-má-hồng (Mac-Mahon),
Ro-dom (Norodom) phía trước giữa lòng rộng ngay.
Sau dinh có sở vườn cây,
Vườn của thành phố Xã Tây tạo thành.
Bồ-rô (jiardin de la ville) roi dấu hiệu danh,
Để khi nhàn hứng thích tình du quan.
Có ngôi mả đá bỏ hoang,
140. Xây xôi bền chắc vững vàng ngoài trong.
Hãy còn ở giữa bồn bông,
Lầu dài sánh với non sông chẳng già.
Cách ba trăm thước không xa,
Ba hình ngó cuống đường là Bê-ranh (Pellerin).
Các nơi Pháp quốc tỉnh thành,
Có ba hình ấy xanh quanh dựng cùng.
Cớ sao đem tới Nam trung,
Nguyên vì một chỗ không sung bạc tiền.
Vậy nên chuyên chở xa miền,
150. Hườn công cho thợ vốn tiền bên nây.
Dư xài mua giúp cũng hay,
Lại là roi dấu những tay tài tình.
Bổn quốc (Chasseloup-Laubat) trường gốc học hành,
Văn chương dạy dỗ rõ rành trang nghiêm.
Giờ học bốn phía lặng im,
Ghế bàn đâu đó khiêm khiêm kỉnh nhường.
Chia ra bên nọ một phương,
Cho con tây học tiền trường Xã Tây.
Lại còn một phía bên này,
160. Bá-công-kị-nghệ (Professionnel) có thầy dạy riêng.
Nam kỳ sĩ tử tinh chuyên,
Nhiều người thành đạt liền liền trước sau.
Ta-be (Taberd) trường lập đã lâu,
Đờ-kẹt-lăng (Dekerland) trước làm đầu khởi ra.
Thương con nít thể ruột rà,
Của nhà tự xuất lập mà Ta-be.
Ơn nhờ Thiên Chúa chở che,
Lần lần sung thạnh ngày khoe hạo phiền.
Đời Đức cha Mỹ càng siêng,
170. Đem thầy dòng lại mối giềng mở mang.
Thông minh hậu tấn bộn bàn,
Học rồi thì đậu làm quan cũng nhiều.
Nhớ xưa công nặng dắt dìu,
Dung nghi mô phạm quạnh hiu bao đành.
Chung tiền tạc đúc trượng hình,
Dựng trước trường học gọi tình thảo chăng.
Rõ ràng ông Đờ-kẹt-lăng,
Ngàn thu trông ngó xem bằng đẩu sơn.
Thiệt là hậu ngãi thâm ơn,
180. Nay còn Bổn hội đồng nhơn nội trường.
Những người phủ huyện viễn phương,
Thông ngôn, thông phán trải phường dinh quê.
Mỗi năm một bữa Hội tề,
Lễ Băn-tờ-cốt (Pentecôte) đều về yên diên.
Tốt thay phong hoá roi truyền,
Cho con vào đó tốn tiền cũng ưng.
Có con ai chẳng thương cưng,
Nên đặng thời mừng đẹp mặt mẹ cha.
La-tinh trường gốc các cha,
190. Của trong hội thánh lập đà mấy thu.
Để mà dạy những thầy tu,
Coi trong tánh hạnh cang nhu thể nào.
Văn chương mẹo mực dường bao,
Lựa cho phải mặt mới vào làm cha.
Người thời lỡ bước trở ra,
Người thời tri chí lâu mà luyện am.
Linh mục chức không dễ làm,
Hai bên tài đức đều kham mới thành.
Sở cọp trường nhỏ cũng danh,
200. Lập tại châu thành đường sá quân phân.
Gội nhuần nhà nước thi ân,
Bày ra phương tiện cho dân dễ dàng.
Mấy người nghèo khổ cơ hàn,
Đem con ăn học vững an tấm lòng.
Lớp lang nghiêm chỉnh ngoài trong,
Lần qua trường lớn thành công làm thầy.
Vui xem con nít đông đầy,
Gắng siêng đèn sách sau rày đều nên.
Trường con gái ở một bên,
210. Cách bày dạy đỗ vững bền lắm thay.
Trưởng của thành phố Xã Tây,
Nữ sư Pháp quốc làm thầy thuở nay.
Dạy vừa thêu tiểu vá may,
Tiếng tâm chữ nghĩa cho hay mọi nghề.
Gái Phan-sa học bộn bề,
Họ chữ học nghề thêm trí thông minh.
Làm ra phong hoá lịch xinh,
Sắc tài gồm đủ đặng vinh cho mình.
Sơn-đá (soldat) chỗ thành bộ binh,
220. Ba từng lầu cất phân minh vững bền.
Dấu còn thành củ vách phên,
Nay làm một sở cội nền quốc gia.
Quan một, quan hai, quan ba,
Dạy quân hàng ngũ vào ra chỉnh tề.
Binh thơ các phép luật lề,
Ngày ngày học tập chẳng hề đơn sai.
Thái bình thường bữa dồi mài,
Gặp cơn bát loạn chi nài đục xông.
Bởi vì dự bị sẵn xong,
230. Để cơn cản vệ đề phòng xuất chinh.
Dưới tàu thì có thuỷ binh,
Lớp tuần ngoài biển lớp đình trong sông.
Thuỷ thời có soái thuỷ công,
Bộ thời có soái bộ co6ng hẳn hòi.
Đân đâu phần trị phần coi,
Miệng hô kèn thổi như thoi trở liền.
Ba-son (arsenal) là sở tạo thuyền,
Đủ các thứ thợ liền liền làm công.
Thợ rèn nóng nguội song song,
240. Phận ai làm nấy cho xong mới nhàn.
Thợ bào, thợ dũa, thợ khoan,
Thợ mộc đóng ghế, đóng bàn, tủ rương.
Thợ sơn với thợ xảm đương,
Thợ hàng thợ thiếc các phường còn đông.
Cập-rằng là kẻ đầu công,
Những trang thơ ký thảy thông toán đề.
Đâu đâu thứ lớp nghiêm tề,
Chỉnh tu thuyền lãm tư bề nhuệ kiên.
Ụ tàu an đốn cận biên,
250. Chờ khi tu bổ hoả thuyền đem vô.
Thiệt là lợi thiệp hải hồ,
Nước giàu binh mạnh cơ đồ muôn năm.
Sở-mộ (artillerie) chứa súng ngàn trăm,
Kho để trái phá chất nằm ngổn ngang.
Kho đạn, kho thuốc, kho than,
Kho bánh rượu thịt để ban binh biền.
Hình nguyên soái cận giang biên,
Ngó ra sông lớn phía tiền oai nghi.
Tên gọi Đờ-rơ-nu-di (Rigault de Genouilly),
260. Đờng đường diện mạo tu mi anh hùng.
Thống lãnh các đạo binh nhung,
Tam quân tư mạng chuyên trong trường hùm.
Tám trăm năm chục tám năm (1858),
Nhắm Đà – Nẳm tấn xâm xâm ghé hòn.
Năm mươi chín (1859), lấy Sài Gòn,
Công lao sự tích sử còn chéo ghi.
Ngàn thu đồng sắt tri tri,
Rõ ràng nét chữ y nguy tạc đề.
Gần đó Đờ-la-cờ-rê (De Lagreé),
270. Biểu dương thạch trụ bởi về niệm công.
Dạo xem các xứ Mê-công (Mé-kong),
Cõi bờ hình thế hiểu thông đặng nhiều.
Địa đồ mấy bức hoạ miêu,
Dầm dề sương tuyết biết nhiêu dặm trường.
Rủi ro bịnh mất giữa đường,
Dấu rơi nhà nước thường thường kỉnh yêu.
Đá xây tích để tạc biêu,
Người qua kẻ lại mơi chiều ngợi danh.
Trước Nhà hát cũng một hình,
280. Gạt-Nhê (Francis Garnier) thuở nọ liều mình hết ngay.
Bị trận Cầu Giấy đến nay,
Ngàn thu diện mạo trày trày nét da.
Đông dương Thương chánh một toà,
Chỗ là tiền bạc Quốc gia cội nguồn.
Thâu vào ức triệu luôn luôn,
Chi tiêu các sở ngàn muôn cậy nhờ.
Lý tài trên khéo tri cơ,
Làm ra giàu mạnh tư cơ lâu dài.
Thượng thơ Chỉnh đốn trong ngoài,
290. Ngăn phòng thứ lớp an bài nghiêm trang.
Mỗi phòng đều có đầu quan,
Thông ngôn Thơ ký các bàn An Nam.
Công việc phận ai nấy làm,
Hai bên nhứt, nhị, tứ, tam bốn phòng.
Mối giềng sáu tỉnh giao thông,
Đâu đâu sổ sách công đồng phân minh.
Hội đồng nghị viện trung dinh,
Các ông Quản hạt thích tình bẻ bai.
Tre tàn măng mọc nối hoài,
300. Lớp xưa tuyển cử ai ai cũng tài.
Lớp sau thay đổi mấy ngài,
Biện thiệp đa tài quen thuộc nói năng.
Thượng thơ là chỗ bổn căn,
Việc quan các hạt công văn rất nhiều.
Kho sách, sách biết bao nhiêu,
Các quan lui tới thảy đều coi chơi.
Ghế bàn đâu đó sẵn nơi,
Cổ kim sự tính chuyện đời chiêu chương.
Phiên dịch chỗ gốc văn chương,
310. Tiếng tâm chữ nghĩa các phương nhiệm mầu.
Ông Diệp Văn Cương đứng đầu,
Tây nam hai phía thích câu phân bài.
Thông minh kiến trọng Hiến đài,
Thiên tư mẫn đạt khâm hoài hào ba.
Lương bằng Tham biện hạng ba,
Thật nhờ hậu ý Quốc gia dưỡng hiền.
Tánh hay hiếu kỉnh từ huyên,
Tạo đoan phu phụ trọn nguyền thỉ chung.
Bạn thời chỉ tín một lòng,
320. Lắm khi tế hiểm trợ cùng anh em.
Phải trang học hạnh lưỡng kiêm,
Hoanh hoanh liệt liệt khiêm khiêm đủ điều.
Khi nhàn thi tửu vịnh iêu,
Vô ưu tô lự mĩ miều phong nghi.
Coi ra trung bối Nam kỳ,
Tài danh bực ấy kém gì Thanh Liên.

[Lược bài thơ của Nguyễn Liên Phong - xin xem bản chụp đính kèm]

Bùi Quang Nhơn, cũng sĩ hiền,
Với Trương Minh Ký huỳnh tuyền ra chơi.
Tử sanh số mạnh ở Trời,
330. Sonh tình cảm khái bời bời nhớ thương.
Thuở trước ông Tôn Thọ Tường,
Làm Đốc phủ sứ văn chương lão thành.
Tao Đàn sáu tỉnh biết danh,
Mấy năm hoạ thự liêm thanh thận cần.
Bạn cùng Cử Trị tương thân,
Tánh hay hỉnh sĩ xa gần ngợi phong.
Cử Trị ăn ở lạ lùng,
Áo quần xịt xạc điên khùng quá tay.
Gặp Tường thời Trị mắng ngay,
340. Bởi vì tà tửu ít hay kiêng dè.
Hoạ thơ chống chỏi chê đè,
Tai ngơ danh lợi chẳng nghe chẳng cầu.
Ông Tường không dạ chấp câu,
Mặc dầu kêu ngựa kêu trâu thích tình.
Đầu là tương trợ thành danh,
Đã lâu về cõi âm minh xa miền.
Tiếc thương đạo vị thánh hiền,
Chừ luôn nhắc lại cảm phiền lắm thay.
Thống đốc độ lượng cao dày,
350. Đờ-la-mốt (De Lamothe) lại ước rày mấy trăng.
Phải trang văn học Đại thần,
Nhơn tâm thiện chánh chuẩn thằng lục châu.
Nước nhà nuôi sĩ ơn sâu,
Học chánh là chỗ làm đầu giáo quan.
Tam toà trên dưới dọc ngang,
Các phòng các sở nghiêm trang tư bề.
Xử hình, xử bộ chỉnh tề,
Rung chuông, hiệu lịnh thường lề thuở nay.
Trạng sư lý đoán đặt bày,
360. Ra công cãi lẩy vạy ngay trước toà.
Quan to quan nhỏ tại toà,
Gốc nơi Chưởng lý phân ra các đường.
Khám lớn là chỗ ngục đường,
Khuôn viên bốn phía vách tường xây cao.
Anh giờ nghiêm nhặt ra vào,
Gái trai phân biệt khi nào thấy nhau.
Phạm nhơn kẻ trước người sau,
Kẻ can tội nhẹ người đau trọng hình.
Cậy nghề đương đát giải tình,
370. Thương thay nhứt nhựt đã đành thiên thu.
Nhãn tiền thấy những đảng du,
Làm hung mắc án ở tù biết bao.
Khỏi ra rồi cũng chẳng nao,
Cứ theo thói cũ ồn ào đã quen.
Mu-dích (musique) nơi các bồn kèn,
Vui lòng hứng chí nghe bèn giải khuây.
Sở nấu nha phiến đông đềy,
An Nam Các-chú thường ngày làm công.
Mùi hương thơm ngát ngoài trong,
380. Thẫu-ô thẫu-bạch thuốc thùng chứa trên.
Dưới lầu hộp sáp kẹp lền,
Ống cho thuốc xuống cân nên lẹ làng.
Bán đi các hạt muôn ngàn,
Yên hà thích thú người càng vui say.
Châu thành một sở Xã Tây,
Bạc tiền thành phố càng ngày càng sung.
Giữa đường Kinh lấp (Charner) chánh trung,
Lầu đài đường sá rộng thông tư bề.
Quan thầy thuốc, quan Nô-te (Notaire),
390. Quan Thanh tra với các đè hình quan.
Canh nông ảnh tướng bá bang,
Tạp tụng sanh ý các hàng nhà thương.
Sáu tỉnh nhà cửa cầu đường,
Gốc bên Tạo Tác sửa đương cầm quyền.
Tiếng kêu là sở Trường Tiền,
Hai mươi hai hạt mối giềng âu lo.
Khám Đạc là sở hoạ đồ,
Nam kỳ ruộng đất sắp đi điệp trùng.
Quan Kinh lý, Mai Văn Cung,
400. Thật người cần cáng mà công nghiệp nhiều.
Tánh hay không lẫn không kiêu,
Quấc gia hậu lộc chuộng yêu người tài.
Dinh, Quan, Bính, Lắm, Sang, Tài,
Với Phạm Ngọc Chiếu bảy ngài có danh.
Vẻ vời ăn nói khôn lanh,
Công lao giúp nước đã đành tạc ghi.
Quan trên người phải thương vì,
Làm lâu thêm trí thi vi bộn bề.
Kho bạc trữ bạc ê hề,
410. Phần về quản hạt phần về Đông Dương.
Tuần thành bót (poste) các nẻo đường,
Gốc nơi Cò Nhứt phô trương có phần.
Lính tuần lính kín cắt phân,
Tuần do kiểm xét coi chừng thừa cơ.
Chẳng cho gian tế ơ hờ,
Luân phiên chuyển thứ cứ giờ đổi thay.
Đại thương các bảng ở đầy,
Các nhà lãnh sự đều rày lịch thanh.
Nhà kín cách tu ép mình,
420. Giữ chặt tánh tình như gắn keo sơn.
Nhà mồ côi thật có nhơn,
Gặp con cô độc ra ơn giúp nàn.
Đem về hoạn dưỡng gian nan,
Tây, Nam, bất loạn hai đàng con ai.
Tục kêu Nhà trắng lâu đài,
Lớp lang nghiêm chỉnh từ ngoài đến trong.
Giữ gìn nữ hạnh nữ công,
Lớn khôn thời gả lấy chồng làm ăn.
Đâu đâu có lớp có ngăn,
430. Sửa đương giềng mối lăng xăng bĩ bàng.
Lắm nhà quyền chức giàu sang,
Đem con vào học lòng an chịu tiền.
Chịu tiền thì để cách riêng,
Các Bà dạy dỗ nhọc siêng đêm ngày.
Tiếng tăm thêu tiểu vá may,
Văn chương chữ nghĩa học hay rõ ràng.
Chuyện làm phải nghĩa rỡ ràng,
Ôn nhờ nhà nước giúp đàng tiện nghi.
Mỗi năm chịu bạc bồ chì,
440. Giao cho Bà Phước để khi xây dùng.
Có chỗ cân giờ nhựt trung,
Trên tàu Ông Thượng đặt vòng Địa La.
Còn năm ba phút vậy mà,
Đem đồ hiệu lịnh kéo qua cột cờ.
Đợi đến đúng mười hai giờ,
Đồ kia rớt xuống súng hờ giựt dây.
Nổ lên một tiếng vang vầy,
Châu thành bốn phía sum vầy giấc trưa.
Vườn thú cao thấp nhặt thưa,
450. Cỏ cây các món vừa vừa sum sê.
Thượng cầm hạ thú bộn bề,
Côn trùng lân giáp kiếm về nhốt nuôi.
Khi nào thừa hứng chơi vui,
Quan dân tới đó cũng nguôi phiền tình.
Một toà Đề đốc đại đình,
Trướng hùm nghiêm chỉnh chỗ thành ngươn nhung.
Hãng tàu hai sở rộng thôn,
Một sở Nhà Rồng một sở Nam Vang.
Hãng bạc trữ bạc muôn vàng,
460. Nhà máy Xóm Chiếu gạo tràng viễn phương.
Hãng xe lửa nhỏ hai đường,
Một đường Chợ Lớn một đường Mỹ Tho.
Thiếu chi các hãng buôn to,
Vận thiên ức triệu cơ đồ kinh dinh.
Thiếu chi đường sá hiệu danh,
Kể sao cho xiết linh tinh mọi bề.
Khá khen cho hãng bảo kê,
Bảo thuyền bảo phố chỉnh ghê bảo người.
Công ti tiệm biết mấy mươi,
470. Hướng Đương nha phiến nói cười xuê xang.
Cà-phe (café) bán các nẻo đường,
Thuốc bao đỏ trắng xanh vàng lịch sang.
Máy nước phong-tên (fontaine) kỹ càng,
Nắng thời xe nước tưới chan ướt dầm.
Chỗ coi các sở Kiểm lâm,
Giấy tờ sổ sách mỗi năm liền liến.
Gỗ cây thiên vạn bạc tiền,
Nam kỳ lục tỉnh mối giềng phân minh.
Phan-sa, quấc ngữ nhựt trình,
480. Mỗi tuần in bán sự tình lăng xăng.
Gia Định báo là công vân,
Phát ra các hạt lệ hàng không sai.
Dọc ngang biết mấy lầu đài,
Sở kia sở nọ kể hoài xiết đâu.
Phố phường cao thấp cạn sâu,
Mặt tiền trong hẻm trước sau ở đầy.
Ước chừng hơn mười năm nay,
Đờn bà nước chệc đổi thay qua thường.
Bên tàu lắm lúc nhiễu nhương,
490. Dân đi các nước tìm phương ăn làm.
Tách muôn ngàn dặm sang Nam,
Đem thân bồ liễu lòng cam xa vời.
Sài Gòn Chợ Lớn hai nơi,
Chệc trai với xẩm thảnh thơi ở trường.
Thói hay cúng đốt đèn hương,
Tam ngươn tứ quí kỳ nhương liền liền.
Đoan hương, trùng cửu thường niên,
Đêm khi khất xảo ngày miền thanh minh.
Trung thu, Đông chí rập rình,
500. Lễ kia lễ nọ hậu tình biết bao.
Người sanh bất luận nước nào,
Cũng điều phông tập vào thói quen.
Tấm lòng thành kỉnh khá khen,
Lựa là giàu khó sang hèn mà chi.
Bến Thành chợ rộng tứ vi,
Mấy cửa hàng xén ở thì luôn năm.
Chỗ ăn chỗ bán chỗ nằm,
Ba-tăng (Patente) tiền thuế bạc trăm không cầu.
Ngoài thời cà mướp cau trầu,
510. Chuôi dưa măng mít bông rau cải hành.
Bắp khoai cam quít ớt chanh,
Gà giò vịt đẻ cua xanh tôm càng.
Bánh trái biết mấy chục hàng,
Bò heo thớt thịt nhẩy tràng dọc ngang.
Cua gạch cu con ra ràng,
Gà lộn trái vải rượu càng ngon xa.
Mắm nêm, mắm ruốt, khô tra,
Tân-ô, xà lách, bạc hà tía tô.
Bí rợ nấu với dừa khô,
520. Măng le mắm ruốt vật mô sánh bằng.
Canh bầu nấu cá trê ăn,
Cá rô củ cải tánh hằng ưa nhau.
Le le, chàn nghịch, ốc cau,
Gà rừng, mỏ nhát, bồ câu, áo dà.
Se sẻ, ba kiến, đa đa,
Trong các món ấy đều là tên chim.
Cá thời sủ, vượt, đối, chim,
Chét, ha, phên, bống, liềm kiềm, lưỡi trâu.
Ốc len, sò huyết, vọp hàu,
530. Hến, ngao, trai, vẹm kể hầu xiết đâu.
Xoài chua, mắm ruốt chung nhau,
Với đào lộn hột ăn lâu không nhàm.
Ăn rồi nóng nảy đa dâm,
Đờn bà hỗn tánh lại cam thích dùng.
Sài Gòn thứ nhứt chợ sung,
Nói sao cho hết điệp trùng hiệu danh.
Thiệt là một chỗ thị thành,
Món ăn đồ bận cải canh hoài hoài.
Gái ham sắc trai ham tài,
540. Trai tài gái sắc sắc tài đều xinh.
Bao nhiêu vật giá trọng khinh,
Thách cao mà bán bình bình chẳng cao.
Thầy bói gõ qui lao xao,
Mỗi quẻ mỗi cắc nói phào cũng xong.
Thầy thuốc đờn bà đớn ông,
Cao, đơn, hườn, tán, lắm công sắp bày.
Mấy đứa nói thơ cũng hay,
Nói hoài nói huỷ nghe rày như điên.
Chà và ngồi đổi bạc tiền,
550. Hai ba bốn chỗ liền liền buổi mai.
Thường khi chợ sớm không sai,
Lính tuần đi xét các loài cá ương.
Nhà dài mấy nóc đông thường,
Ngoài thời ngồi chật cả đường tràng khan.
Khá khen mấy chú dọn bàn,
Tiếng Tây học nói rõ ràng quá lanh.
Nấu ăn nhiều kẻ có danh,
Càng ngày càng khéo càng sanh trí mầu.
Thợ xe máy, cũng cơ cầu,
560. Thấy thời bắc chước lậu lâu nghiệp thành.
Sài Gòn bốn phía châu thành,
Bá công kị nghệ xanh quanh đông dầy.
Làm ăn không nới chưn tay,
Kể hết ra rày vạn vạn thiên thiên.
Mỗi người mỗi tháng có tiền,
Kẻ nhiều kẻ ít lộc riêng vững bền.
Gạo ba thắc, nước phong-tên,
Quán cơm quán rượu hai bên sẵn sàng.
Sở nào sở nấy nhẩy tràng,
570. Gần đâu mua đó đồ đoàn thường xuyên.
Sang giàu thì sướng như tiên,
Lên xe xuống ngựa bạn hiền vãng lai.
Nghèo thì có nghiệp sinh nhai,
Ngày làm tối ngủ nằm dài thảnh thơi.
Những trang con gái các nơi,
Đem thân lưu lạc về chơi Sài Gòn.
Tiếng Tây tập nói cũng dòn,
Sửa dồi nhan sắc phấn son sạch đời.
Chị em bạn tác khuyên mời,
580. Lâu lâu xem cũng thành người lịch sang.
Người Hải nam ở dọn bàn,
Tập khôn tập khéo nhà hàng đã lâu.
Rủ nhau ra mướn phố lầu,
Làm nhà hàng nhỏ bán hầu cơm tây.
Sài Gòn danh nhứt đời nay,
Sông sâu trăm trượng chánh ngay phía tiền.
Bực sông cẩn đá khuôn viên,
Hư đâu sửa đó liên liên tu bồi.
Chi nhường kinh quốc chỗ vua,
590. Nhơn dân đô hội tư mùa lịch xinh.
Thường ngày qua lại người Thanh,
Tại toà Tân đáo xét trình luôn luôn.
Tụ hay đờn địch giải buồn,
Cúng cơm đãi tiệc thơ tuồng xướng ca.
Kim tranh, bài bản rập hoà,
Thanh tao nhã hứng miệng ca tay đờn.
Tốt thay mấy ả giai nhơn,
Tay vàng tay ngọc ngón đờn quá xinh.
Xe mui chiều thả xanh quanh,
600. Đôi vòng Bà Chiểu thích tình vào ra.
Bánh mì các tiệm gần xa,
Thơm ngon khí vị đều là khéo khôn.
Một mình Phước Thái tiếng đồn,
Thường khi trước bữa dập dồn người ta.
Chùa Ông Bổn xóm Bà Ba,
Tên Phụng Sơn tự hội mà quá sung.
Bên đờn bà, bên đờn ông,
Mỗi năm đáo lệ nhóm chung bạc tiền.
Xướng ca tế cúng liền liền,
610. Bạn Nam bạn Quản hát liên đêm ngày.
Xã Tri các hãng cho vay,
ở bên Ấn Độ đông tây các miền.
Tách ngàn qua cọi nam thiên,
Dinh thương phóng trái mối giềng gầy nên.
Cất ra phố xá vững bền,
Mua chợ mua đất kẹo lền đầy ngay.
Lớp thời bán vải cho vay,
Lớp thời làm việc đều nay chà và.
Cũng là chung một tiếng Chà,
620. Cả trong Ấn Độ vậy mà khác nhau.
Một Chà xã tri khá giàu,
Bạc muôn bạc vẻo chẳng cầu sức ai.
An nam các chú gạt hoài,
Tính vắn tính dài tham có ích chi.
Cất chùa kỉnh phục từ bi,
Mỗi năm chưng cộ Phật đi một lần.
Ba bốn chỗ nữa cũng gần,
Làm chùa thờ Phật tiêng phần sửa trau.
Bến Nghé sông rất rộng sâu,
630. Đặt tên bến Nghé bởi đâu mà rằng.
Nguyên xưa rậm rạp còn rừng,
Trâu thường đầm tắm hoặc chừng nghé kêu.
Ngày nay phong cảnh tốt đều,
Tàu ghe lớn nhỏ đậu bèo hai bên.
Đò dọc rước mối xuống lên,
Giành nhau xâu xé vang rên cả ngày.
Ghe bầu sắp tới đậu ngay,
Trong cầu Khánh Hội nối dài đỏi dây.
Cầu Mống khen ai khéo xây,
640. Mấy năm trải đã mấy rày xuân quan.
Có ba sở hãng cũng sang,
Nghiệp làm đồ sắt ở ngang đầu cầu.
Chuyên nghề sửa máy đóng tàu,
Lại đi chịu giá chợ cầu các nơi.
Xứ xa tàu mới tới nơi,
Hư đâu mướn sửa thảnh thơi lệ làng.
Các loài kẽm sắt đồng gang,
An Nam các chú ra vào tiếng vang.
Cột cờ thủ ngữ nghiêm trang,
650. Có nhà đánh thuế hoá hàng bán buôn.
Xe lửa nhỏ đi luông tuồng,
Chỗ người đông đảo rung chuông liền liền.
Chạy dài theo mé giang biên,
Tới chợ Ông Lãnh phố liên ra vào.
Công ty heo thường ào ào,
Buổi khuya buổi xế biết bao heo bò.
Cũng là sanh lý cơ đồ,
Cả năm sát hại kể mô xiết ngàn.
Khỏi bót lên ngay Cầu Quan,
660. Bên phía tay hữu luôn hàng thanh lâu.
Nhựt Bổn điếm đều ở lầu,
Trướng phòng sạch sẽ rước hầu khách sang.
An Nam phố thấp ở tràng,
Tối ra kéo níu dọc ngang cùng đường.
Nực cười trêu phỉnh phấn hương,
Biết ai là chắc cửu trường ái ân.
Lục-xi tuần lễ hai lần,
Dĩ nào cũng vậy sợ chừng bịnh đau.
Phía đường trước cửa Kho dầu,
670. Có hai rạp hát hai đầu la vang.
Thường đêm hát lấy tiền giàng,
Mà đêm thứ bảy nhẩy tràng người ta.
Chùa Ông Thánh mới lập ra,
Đất linh phải chỗ nay đà thạnh sung.
Thái Hưng nội hội rất đông,
Quan viên chức sắc đứng trong bộn bàn.
Thái Bình nguyên trước là làng,
Đình thần có sắc Thành Hoàng vua phong.
Sao dời vật đổi mấy đông,
680. Hoá ra một chỗ thuộc trong châu thành.
Chủ hội tên là quản Bành,
Gốc con ông chủ Thái Bình làng xưa.
Mối giềng còn lại dây dưa,
Nhờ người lòng tốt đẹp vừa với nhau.
Đồng tâm hiệp lực lo âu,
Nay thành qui củ bền lâu vững vàng.
Tốt thay một xóm Cầu Quan,
Ăn chơi đờn địch lịch sang nhiều nhà.
Chợ Đủi sung túc cửa nhà,
690. Có cảnh Chùa Bà tuy nhỏ mà linh.
Chỗ chợ nhỏ coi cũng xinh,
Nhóm năm bảy chục bình bình thường đông.
Kế bên Đất Thánh nên sung,
Mả ông Lái Gẩm chánh trung một nền.
Ngàn thu chói tạc họ tên,
Khuôn viên bồi đắp vững bền xanh quanh.
Công thần miễu trước anh linh,
Nay làm một chỗ tập binh trú phòng.
Phía sau đất trống minh mông,
700. Xưa đồng tập trận rộng thông tư bề.
Mô súng dượt súng thường lề,
Trường đua thi dễ đấu về ngựa hay.
Kề bên gò đất cao đầy,
Kêu rằng mã nguỵ thuở nay tiếng cùng.
Minh Mạng thập lục niên trung,
Phan An thành hãm người trong hơn ngàn.
Nam phụ lão ấu cả đoàn,
Tội lây vạ tràng vua chẳng thứ dung.
Biền tru hạ chiếu ngai rồng,
710. Thành trung tặc đảng chôn chung một hầm.
Giặc loàn chết đã cam tâm,
Tủi ro xích tử lỗi lầm vì đâu.
Hoan hồn ăn thảm uống sầu,
Suối vàng lạnh lẽo ai cầu cho siêu.
Đời nay khôn quỉ quá nhiều,
Tục ngữ bày điều mã nguỵ đầu thai.
Trớ trinh đặt để bởi ai,
Tình cờ tiếng nói còn hoài đến nay.
Chợ Hộ phong cảnh tốt thay,
720. Chùa Minh Sư lập tại rày ga-xe.
Trong chùa thanh khiết chỉnh tề,
Ăn chay để tóc người mê Phật đường.
Chùa Phù Châu ở bên đường,
Tụng kinh viết sớ sãi thường thảnh thơi.
Cầu Bông địa cuộc thanh tươi,
Có ông Phủ Kiệt đương đời giàu sang.
Thuở kia cần khổ gian nan,
Ở nơi đất Hộ mở mang tư bề.
Ngày nay đông đảo chỉnh tề,
730. Tứ dân sanh lý nghiệp nghề thạnh sung.
Thẳng qua chợ mới rất đông,
Ở ngoài Ba Xã vào trong quá nhiều.
Nghề chài nghề nhuộm mơi chiều,
Đi buôn làm việc người đều thảnh thơi.
Nhà lầu thờ Đức Chúa Trời,
Tên kêu tân Định thiệt nơi chỉnh tề.
Người trong họ, ở tư bề,
Nhà in cha Thượng cất kề dựa bên.
Lập thành cơ chỉ vững bền,
740. Bán ra sách vở giúp nên các tràng.
Đinh Thái Sơn người Nghệ An,
Gốc dòng khoa mục rõ ràng trâm anh.
Vào Nam kỳ thuở xuân xanh,
Theo Lê Bá Đảnh học hành lập thân.
Ai dè thời sự phân vân,
Vào trường Tân Định tập dần công phu.
Bốn năm lao khổ cần cù,
Học nghề đóng sách luyện tu nghiệp thành.
Rồi ra ở tại Bến Thành,
750. Nhà Ô-Gúc-Bốc (Auguste Bosc) tất tình làm công.
Mơi chiều phận sự vẹn xong,
Mỗi ngày hai cắc cũng không dạ phiền.
Lần hồi sau cũng khá tiền,
Cám ơn nhạc phụ đức hiền phối duyên.
Ăn chung mà lại làm riêng,
Ít nhiều thâu góp nhọc siêng tháng ngày.
Bày làm vốn nhỏ đầu tay,
Năm trăm đồng bạc dựng gầy thiểu đa.
Dốc lòng bền chí trát ma,
760. Nhờ ông Vĩnh Ký ơn ra bảo toàn.
Xin giùm đóng sách cho quan,
Tại nơi kho sách bạc ngàn hoá sanh.
Ngày nay phấn phát thân danh,
Vợ con sung túc lập thành qui mô.
Lưu truyền vĩnh viễn cơ đồ,
Cội cây nguồn nước dám mô quên nghì.
Hiệu đề Phát Toán một khi,
Đem tên cha vợ tạc ghi để đời.
Cho người hay biết nơi bơi,
770. Băng thanh ngọc nhuận rạng ngời gia thinh.

[Lược 2 bài thơ đề tặng của Nguyễn Trại Lượng - xin xem bản chụp đính kèm]

Hai toà đất Thánh minh minh,
Tứ vi xây đắp vách thành vọi cao.
Bốn mùa gió thổi rao rao,
Linh hồn người chết thoảng vào thoảng ra.
Miễu chùa hội quán của ta,
An Nam các chú vậy mà biết bao.
Rủ nhau tiền bạc cúng vào,
Thiện nam tín nữ mặt nào chẳng ưng.
Gặp cơn trong hội không chừng,
780. Người nào đau chết cơ bần rủi co.
Của chung tình thảo xúm lo,
Lễ nghi tống táng chẳng cho đơn hèn.
Thiệt là trung hậu khá khen,
Tập nhau chuyện tốt tục bèn thuần lương.
Đồ âm công các ngã đường,
Mấy người đầu nậu đã thường sắm ra.
Thành phố hèn sang các nhà,
Rủi khi tử táng đâu đà sẵn nơi.
Ít nhiều tiền bạc theo đời,
790. Có ba bốn hạng rước mời tuỳ nghi.
Đồ đoàn đủ hết y nguy,
Lẹ mau công chuyện vậy thì như chơi.
Sài Gòn Chợ Lớn hai nơi,
Coi trong tang lễ tục đời rất xinh.
Dẫu ai nghèo khổ một mình,
Chúng bạn hết tình khi chết giúp nhau.
Nhà vàng giá triệu trước sau,
Kẻ đa người thiểu nhóm nhau đưa đường.
Tục hay cờ bạc thường thường,
800. Bài cào thứ nhứt các đường hẻm eo.
Ăn thua chẳng kể khốn nghèo,
Xóm nào xóm nấy đánh theo chặn nhà.
Bất kỳ bé lớn trẻ già,
Đờn ông đờn bà đạp tới thời mê.
Nhì là sá hỏ với me,
Phá hấu, tứ sắc, các tê, dập dìu.
Thói hay bắt chước nhau đều,
Mấy năm nay cả sắm nhiều vàng đeo.
Bông kiềng trâm chuỗi xuyến neo,
810. Chật tay chật vổ thêm đeo hột xoàn.
Càng ngày càng mắc giá vàng,
Tiền công thợ bạc quá ngàn quá muôn.
Bày ra kiểu cách rập khuôn,
Lâu lâu lại có luôn luôn mới hoài.
Đua nhau trang sức dồi mài,
Cá chìm sóng sắc trai tài ngã xiêu.
Mây mưa một trận ấp yêu,
Ngàn vàng không tiếc mua liều thú chơi.
Sài Gòn Chợ Lớn lịch đời,
820. Vàng đeo đẩy cổ xoàn ngời hai tay.
Chà và có vận cho vay,
Tịch nhà lấy đất giấy đầy chật rương.
Ngậm nguồi cái cuộc tan thương,
Nhơn tâm thế biến lẽ thường sử nhiên.
Coi qua một chuyện nhãn tiền,
Thì kia các chuyện biết liền đâu sai.
Châu thành du đãng trong ngoài,
Lập phe lập lũ tranh tài với nhau.
Đồn Kèn, đường mới đâu đâu,
830. Củ Chi tay sắc đứng đầu là hơn.
Nghiêm hình trọng phạt chí sờn,
Miễn cho trả oán rửa hờn mới cam.
Thói dân như vậy sao kham,
Dần dần xin phải trước làm răn he.
Từ khi chánh soái Đu-Me (Doumer),
Đông Dương các việc thêm bề sửa sang.
Sài Gòn đến ải môn quan,
Hoả xa thiết lộ sắm toan khởi hành.
Phí bao ức triệu công trình,
840. Khoan sông đào núi sửa bình đường đi.
Lần lần nay đã cữ thi,
Từ Nam đến bắc chờ khi cáo thành.
Lăng-Si (Blanchy) lấy lẽ công bình,
Thương dân nghèo khổ đem mình trở ngăn.
Rủi vừa xảy phát bịnh căn,
Xuống làm địa hạ Tu-văn đã rồi.
Người than kh3 khóc ngậm ngùi,
Tưởng xưa công đức sụt sùi nhớ trông.
Đu-Me (Doumer) công việc chưa xong,
850. Ngài đà mãn hạng về trong xứ mình.
Các quan hội nghị Pháp đình,
Lựa người mẫn cán liêm thanh trọng thần.
Ông-Bô (Beau) đương nhậm Bắc Kinh,
Triều đình điển báo cử hành chiêu chương.
Toàn quyền tổng thống Đông Dương,
Khâm sai khổn ngoại phong cương điều đình.
Tàu ngài vừa tới châu thành,
Người ta chiêm ngưỡng oai linh vang dầy.
Cầm cân nam bắc một tay,
860. Đông Dương triệu chúng đều rày ngóng trông.
Nam kỳ thống đốc một ông,
Ro0đê (Rodier) đổi lại cũng trong chuyến nầy.
Minh Hương hội ngộ sum vầy,
Mưa nhơn khi rưới cả bầy dân đen.
Tánh dân mềm dịu khá khen,
Tôn quân thân thượng thói quen roi còn.
Lịch xinh phong thổ Sài Gòn,
Mấy thầy làm việc sắc son một lòng.
Trong ngoài xu sự phó công,
870. Hai bên bổn phận thảy xong chuyện mình.
Đều là phấn phát thân danh,
Nơi nơi giềng mối thừa hành chẳng sai.
Bề trên thạnh trị lâu dài,
Thuộc liều phận dưới đủ tài thảnh thơi.
Mỗi tuần chúa nhựt nghỉ ngơi,
Cầm kỳ thi tửu nhóm chơi luận đàm.
Chữ nhu đờn địch vui ham,
Vãng lai xướng hoạ siêng làm rất hay.
Quân thân là ngỡi cao dày,
880. Phu thê huynh đệ bạn rày ngũ luân.
Cầu cho đều thảy thận cần,
Trọn bề ngay thảo giữ thân nhơn nghì.
Chánh soái Lo-bu-cop-ki (Klobukowski),
Đương kiêm hiện tại trấn thì Đông Dương.
Ngài hay độ lượng khoan hường,
Thương dân Nam Việt xem dường cổ quân.
Phải trang khâm mạng đại thần,
Mở lòng cha mẹ đoái phần tôi con.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Liên Phong » Sài Gòn