26/04/2024 16:31Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 27/10/2005 16:43
Nguyên tác
蕭蕭古塞冷,
漠漠秋雲低。
黃鵠翅垂雨,
蒼鷹饑啄泥。
薊門誰自北,
漢將獨征西。
不意書生耳,
臨衰厭鼓鼙。
Phiên âm
Tiêu tiêu cổ tái lãnh,
Mạc mạc thu vân đê.
Hoàng hộc sí thuỳ vũ,
Thương ưng cơ trác nê.
Kế Môn[1] thuỳ tự bắc,
Hán tướng độc chinh tây.
Bất ý thư sinh nhĩ,
Lâm suy yếm cổ bề.Dịch nghĩa
Cảnh hiu quạnh lạnh lẽo nơi ải xưa,
Mờ mờ nây thu thấp.
Cánh chim hoàng hộc che mưa,
Chim ưng xanh đói phải ăn bùn.
Ai là kẻ từ Kế Môn phương bắc tới,
Tướng Hán một mình đi hành quân phía tây.
Không có để ý gì đến tai kẻ học trò này,
Tiếng trống cứ vang ầm lên.Bản dịch của Anh Nguyên
Ải biên xưa lạnh, buồn buồn,
Mây thu xuống thấp trông luôn mờ mờ.
Hộc vàng lấy cánh che mưa,
Ưng xanh đói bụng, mổ bừa bùn ăn.
Kế Môn, ai mới về chăng?
Đánh tây, tướng Hán hung hăng một mình!
Nghĩ chi đến kẻ thư sinh,
Trống quân inh ỏi mặc tình vang lên...
(Năm 759)
[1] Cửa ải ở bắc Kế Châu, Hà Bắc.