19/04/2024 10:24Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Lẫm lẫm tuế vân mộ
凜凜歲云暮

Tác giả: Khuyết danh Trung Quốc

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Hán
Đăng bởi Vanachi vào 25/10/2008 22:41

 

Nguyên tác

凜凜歲云暮,
螻蛄夕鳴悲。
涼風率已厲,
遊子寒無衣。
錦衾遺洛浦,
同袍與我違。
獨宿累長夜,
夢想見容輝。
良人惟古歡,
枉駕惠前綏。
願得常巧笑,
攜手同車歸。
既來不須臾,
又不處重闈。
亮無晨風翼,
焉能凌風飛。
眄睞以適意,
引領遙相睎。
徒倚懷感傷,
垂涕沾雙扉。

Phiên âm

Lẫm lẫm tuế vân mộ,
Lâu cô tịch minh bi.
Lương phong suất dĩ lệ,
Du tử hàn vô y.
Cẩm khâm di Lạc phố[1],
Đồng bào[2] dữ ngã vi.
Độc túc luỹ trường dạ,
Mộng tưởng kiến dung huy[3].
Lương nhân duy cổ hoan[4],
Uổng giá huệ tiền tuy[5].
Nguyện đắc thường xảo tiếu,
Huề thủ đồng xa quy[6].
Ký lai bất tu du[7],
Hựu bất xứ trùng vi[8].
Lượng[9] vô thần phong[10] dực,
Yên năng lăng phong phi.
Miện lãi dĩ thích ý[11],
Dẫn lĩnh[12] dao tương hy.
Đồ ỷ hoài cảm thương,
Thuỳ thế triêm song phi.

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Trời cuối năm lạnh lẽo,
Dế đêm tiếng ai bi.
Gió rét từng cơn thổi,
Du tử không áo che.
Tặng Lạc phi chăn gấm,
Lang quân đã chia ly.
Từng đêm dài cô độc,
Tưởng nhớ bóng người đi.
Người còn nhớ năm cũ,
Ân cần giúp lên xe.
Nguyện niềm vui dài mãi,
Nắm tay cùng trở về.
Chỉ tới chưa chốc lát,
Lại chẳng ở trùng vi.
Không đôi cánh chim cắt,
Sao thể cưỡi gió đi.
Phóng mắt tự an ủi,
Vươn cổ nhìn xa kia.
Đứng ngồi bao thương cảm,
Lệ nhỏ ướt đầm đìa.
Đây là bài thứ 16 trong Cổ thi thập cửu thủ, biểu thị nỗi lòng của cô phụ tưởng nhớ chồng đi xa chưa về khi mùa rét tới. Bốn câu đầu tả cảnh thời tiết chuyển lạnh, hai câu tiếp theo tỏ ý hoài nghi về tình cảm của người đi xa đã thay đổi, tám câu tiếp nữa là giấc mộng của cô phụ, sáu câu cuối cùng là nỗi cảm thương sau khi tỉnh mộng.
[1] Bến sông Lạc, chỉ Lạc thần hay Lạc phi. Ở câu này, người vợ thấy chồng đi lâu không về, tỏ ý nghi ngờ chồng đã có niềm vui mới, mang chăm gấm tặng người khác.
[2] Đồng bào nghĩa đen là cùng trong một bọc, chữ nguyên để chỉ những người cùng chung một nước hoặc cùng chung hoạn nạn, ở đây chỉ tình vợ chồng đắp chung chăn.
[3] Dung huy chỉ dung mạo tươi đẹp của người chồng.
[4] Lương nhân là một cách xưng hô của phụ nữ đời xưa với chồng mình; duy là tư duy, suy nghĩ, tưởng nhớ; hoan mang nghĩa kép, vừa chỉ ý trung nhân, vừa chỉ niềm vui.
[5] Uổng là cong, cúi người; huệ là ban ơn; tuy là dây chằng ở xe để giúp người lên. Câu này tả tình cảnh khi hai người lấy nhau, người chồng khom người an cần đưa dây giúp tân nương lên xe.
[6] Nhắc ý những thiên Bắc phong 北風 và Hữu nữ đồng xa 有女同車 trong Thi kinh, biểu thị tình cảm thân mật của vợ chồng.
[7] Bất tu du ý nói gặp nhau còn chưa được giây lát.
[8] Trùng vi tức thâm khuê, nơi ở của phụ nữ. Hai câu ý nói trong mộng tưởng của người vợ, người chồng chỉ về trong phút chốc, lại chẳng tới nơi khuê phòng.
[9] Do chữ 諒, nghĩa là thực tế, thực tại.
[10] Thần phong là con chim cắt, rất giỏi bay.
[11] Miện lãi nguyên nghĩa là liếc mắt nhìn, ở đây chỉ phóng tầm mắt ra bốn phía; Thích ý là giải toả tâm tình, nỗi lòng. Câu này ý nói nhìn khắp bốn phía để giải toả nỗi nhớ.
[12] Tức vươn cổ để ngóng ra xa.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Khuyết danh Trung Quốc » Lẫm lẫm tuế vân mộ