26/04/2024 14:15Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Văn tế Trương Định

Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu - 阮廷沼

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 13/05/2010 08:14

 

Hỡi ơi!
Giặc cỏ bò lan;
Tướng quân mắc hại.

Ngọn khói Tây bang[1] đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn lâm[2];
Bóng sao Võ Khúc[3] về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh trại.

Nhớ tướng quân xưa:
Gặp thuở bình cư[4];
Làm người chí đại[5].

Từ thuở ở hàng viên lữ[6], pháp binh trăm trận đã làu;
Đến khi ra quản đồn điền, võ nghệ mấy ban cũng trải.

Lối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên[7];
Lúc cuộc tan, về huyện Tân Hoà, đắp luỹ đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái[8].

Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng hoà những tưởng rằng xong[9];
Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần tử há đâu dám cãi.

Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền[10];
Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại[11].

Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa[12], sĩ phu[13] lắm kẻ xui theo;
Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật lệnh mấy ai dám trái.

Văn thì nhờ tham biện, thương biện, giúp các cơ bàn bạc nhung công;
Võ thì dùng tổng binh, đốc binh, coi các đạo sửa sang khí giái.

Khá thương ôi!
Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ ràng;
An bạc mưu binh, nào từng trễ nải.

Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố[14], chói sắc giữa trào;
Ai muốn đem gươm báu Can Tương chôn hơi ngoài ải.

Há chẳng thấy:
Sức giặc Lang Sa;
Nhiều phương quỷ quái.

Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang;
Kéo trên bờ ma ní, ma tà, đạn bắn như mưa vãi.

Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân;
Huống chi cô luỹ ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải.

Nhưng vậy mà: Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam;
Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại.

Rạch Lá, Gò Công mấy trận, người thấy đã kinh;
Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi.

Nào nhọc sức họ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên;
Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giao thương đạo tải.

Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng luỹ sắt các nơi;
Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.

Ôi!
Chí dốc đem về non nước cũ, ghe phen hoạn nạn, cây thương phá lỗ[15] chưa lìa;
Nào hay trở lại cảnh quê xưa, nhắm mắt lâm chung, tấm bảng phong thần vội quải[16].

Chạnh lòng tướng sĩ, thương quan tướng, nhắc quan tướng, chiu chít như gà;
Bậc trí, nhân dân, giận thằng tà, mắng thằng tà, om sòm như nhái.

Ôi!
Sự thế hỡi bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư[17]?
Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng soái.

Nào phải kẻ tán sư[18] đầu giặc, mà để nhục miếu đường;
Nào phải người kiểu chiếu[19] đánh phiên, mà gây thù biên tái[20].

Hoặc là chuộng một lời hoà nghị, giận nam phiên phải bắt Nhạc Phi về;
Hoặc là do trăm họ hoành la[21], hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.

Vì ai khiến dưa chia[22] khăn xé, nhìn giang san ba tỉnh luống thêm buồn;
Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.

Còn chi nữa! Cõi cô thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi, may rủi một trường không;
Thôi đã đành! Bóng tà dương gấm ghé kẻ day đòng, quày gót lại, hơn thua trăm trận bãi.

Ôi!
Làm ra cớ ấy, tạo hoá ghét nhau chi?
Nhắc tới đoạn nào, anh hùng rơi luỵ mãi.

Cuộc trung nghĩa hai năm làm đại tướng, nhọc nhằn vì nước, nào hờn tiếng thị tiếng phi[23];
Cõi yên hà một chức chịu lãnh binh, lây lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại!

Khóc là khóc nước nhà cơn bấn loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc nôi;
Than là than bờ cõi lúc qua phân[24], ngày tháng trông vua, ngơ ngẩn một phương tớ dại.

Tướng quân còn đó, các nơi đạo tặc thảy kiêng dè;
Tướng quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.

Nào đã đặng mấy hồi nơi thích lý, màn hùm[25] che mặt rằng xuê;
Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.

Ôi!
Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân;
Đất Gò Công cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái.

Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây;
Nay thác theo thần, nên dâng hộ một câu phúc thái.
1864

[1] Ý nói chiến hạm của quân Pháp chiếm đóng.
[2] Cõi biên thuỳ, nghĩa quân còn hăm hở náu mình nơi rừng rú, kháng chiến.
[3] Vì sao bản mệnh của viên tướng tài.
[4] Lúc ở yên.
[5] Nuôi chí lớn.
[6] Chỗ quân sĩ đóng. Câu này ý nói Trương Định từ hồi còn làm lính đã thông hiểu các binh thư đồ trận.
[7] Giành xông xáo trước.
[8] Chống kẻ căm giận đối với dân nước mình.
[9] Sứ bộ Phan Thanh Giản trở về, nhưng việc giảng hoà chưa kết quả.
[10] Trước ngựa.
[11] Ngoài cửa buồn. Phần việc ngoài biên của võ tướng.
[12] Dấy lòng nghĩa khí.
[13] Bậc người có giá trị.
[14] Tờ không niêm phong để cho mọi người biết (báo thắng trận).
[15] Đứa giặc, giặc giã.
[16] Treo.
[17] Xe và sách. Do câu sách Trung dung: “Kim thiên hạ, xa đồng quỹ, thư đồng văn”. Nghĩa: Nay ở gầm trời, xe chung đường, sách chung chữ. Ý nói thiên hạ thông đồng.
[18] Giải tán binh đội.
[19] Làm tờ chiếu giả.
[20] Cõi biên thuỳ.
[21] Mắc lưới. Lâm cảnh khổ.
[22] Do chữ qua phân: Quả dưa bổ ra. Nghĩa bóng là chia cắt đất cát.
[23] Thị phi: phải và trái.
[24] Quả dưa bổ ra. Ý nói đất nước bị chia xẻ.
[25] Do chữ hổ trướng: chỗ các viên tướng hội họp.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Đình Chiểu » Văn tế Trương Định