05/05/2024 01:50Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Triệu Võ Đế
趙武帝

Tác giả: Đặng Minh Khiêm - 鄧鳴謙

Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi hongha83 vào 09/06/2017 13:55

 

Nguyên tác

蜀地雄吞恢土宇,
長沙薄伐振威風。
帝分南北猶嫌小,
恨不稱兵起漢中。

Phiên âm

Thục địa hùng thôn khôi thổ vũ,
Trường Sa[1] bạc phạt chấn uy phong.
Đế phân Nam Bắc do hiềm tiểu,
Hận bất xưng binh khởi Hán Trung.

Dịch nghĩa

Mạnh mẽ thôn tính đất Thục, mở ra bờ cõi
Mới đánh sơ đến Trường Sa, oai phong đã lừng lẫy
Đất đã chia miền Nam, miền Bắc để cùng làm vua mà còn chê là nhỏ
Vẫn hận rằng không dấy binh ngay ở vùng đất nhà Hán

Bản dịch của nhóm Hoàng Thị Ngọ

Mở rộng biên cương sang đất Thục,
Trường Sa lấn tới, dậy oai phong.
Đất chia Nam Bắc còn chê bé,
Hận chẳng đem quân đánh Hán Trung.
Vua họ Triệu, tên huý là Đà, người Chân Định (nay là huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc) nước Hán. Thời Tần đi đánh Nhâm Hiêu, làm Nam Hải uý (Nam Hải là đất Phiên Ngung xưa, nay thuộc Quảng Đông), sau đánh An Dương Vương lấy được nước. Nhà Hán thời Lã Hậu không cho nước Nam xưng đế ngang với nhà Hán, vua giận cất quân đánh hạ Linh Lăng, Trường Sa của nhà Hán, nhân đó mà xưng đế, cưỡi xe mui vàng cắm cờ tả đạo (hai thứ này chỉ có thiên tử mới được dùng. Ở đây có ý tượng trưng, chỉ việc Triệu Võ Đế ngang hàng với vua Hán). Đến khi Hán Văn Đế lên ngôi, Văn Đế sai Lục Giả sang sứ, vua bèn giữ hoà khí với nhà Hán. Có lần vua hỏi Lục Giả: “Tôi với vua Hán ai hơn?”. Giả nói: “Vương ví với vua Hán sao được!”. Vua nói: “Tôi hận rằng không nổi được binh ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán”. Sắc mặt của Giả tiu nghỉu.
[1] Tên quận đặt ra từ đời Tấn, thời Hán trở thành một nước, địa vực bao gồm phần đất toàn tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay. Đến thời nhà Hậu Hán và nhà Tấn lại trở thành quận.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đặng Minh Khiêm » Triệu Võ Đế