27/04/2024 05:50Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Nhân thôn

Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm - 阮秉謙

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 17/07/2007 21:06

 

Phiên âm

Tổng tổng lâm lâm sinh chí phồn,
Sở cư xứ xứ hữu hương thôn.
Hào hoa hấp nhĩ tỉ lân hội,
Nhân hậu y nhiên mỹ tục tồn.
Tác tức tư đào Nghiêu nhật nguyệt[1],
Âu ca cộng lạc Thuấn kiền khôn.
Thái bình tể tướng ư tư hiển,
Quan cái tinh xu diệu lý môn.

Dịch nghĩa

Nườm nượp sum suê sinh sản ra rất đông đúc,
Nơi nơi có người ở là có xóm làng.
Hào hoa tập hợp, xóm giềng kề bên nhau,
Nhân hậu vẫn thế, phong tục tốt đẹp còn nguyên.
Làm và nghỉ cùng thoải mái trong ngày tháng đời Nghiêu,
Hò và hát cùng vui vẻ trong trời đất đời Thuấn.
Quan tể tướng đời thái bình mở mày mở mặt ở đó.
Mũ lọng đi nhanh như sao, rực sáng cổng làng

Bản dịch của Đinh Gia Khánh

Nườm nượp sum suê khắp sản sinh,
Thành làng, mọi chốn có dân đinh.
Hào hoa tụ hội, nhà liền vách,
Nhân hậu theo lề, tục tốt lành.
Thoải mái làm ăn thời thịnh trị,
Chung vui ca ngợi cảnh thăng bình.
Giữ coi việc nước vinh vì thế,
Mũ lọng qua làng, sao lướt nhanh.
[1] Theo sách Mạnh Tử, dân đời vua Nghiêu sống an lạc, hát rằng: "Nhật xuất nghi tác, nhập nhập nhi tức, tạc tính nhi ẩm, canh điền nhi thực, đế lực hà hữu ư ngã tai", nghĩa là: Mặt trời mọc thì dậy đi làm, mặt trời lặn thì đi nghỉ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn, sức nhà vua có làm gì cho ta đây. Ý nói đức vua Nghiêu lớn quá, bao trùm tất cả, dân hưởng cảnh thái bình mà không cần biết là do công ơn của vua Nghiêu.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Bỉnh Khiêm » Nhân thôn