26/04/2024 18:19Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Túc Thứu thượng nhân thiền phòng
宿鷲上人禪房

Tác giả: Nguyễn Sưởng - 阮鬯

Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Trần
Đăng bởi Vanachi vào 19/07/2008 08:10

 

Nguyên tác

名山登已遍,
小住白蓮宮。
有客從遊熟,
談詩信宿同。
殊無蔬筍氣,
相隔馬牛風。
塵土明朝路,
迴頭謁遠公。

Phiên âm

Danh sơn đăng dĩ biến,
Tiểu trú Bạch Liên[1] cung.
Hữu khách tòng du thục,
Đàm thi tín túc đồng.
Thù vô sơ duẩn khí[2],
Tương cách mã ngưu phong[3].
Trần thổ minh triêu lộ,
Hồi đầu yết Viễn công.

Dịch nghĩa

[4]Đã lên khắp những núi non danh tiếng,
Đến đây tạm ở lại cung Bạch Liên.
Có người khách theo chơi là chỗ quen thuộc,
Cùng nói chuyện về thơ suốt hai đêm.
Trong thơ tuyệt không hề có khí vị rau măng,
Và không cách xa nhau mấy.
Sáng mai trên con đường cát bụi,
Nhớ lại lúc yết kiến Viễn công.

Bản dịch của Trần Thị Băng Thanh, Hoàng Lê

Núi non thăm đã khắp,
Nghỉ lại Bạch Liên cung.
Cùng ban khách chơi cũ,
Bàn thơ hai đêm ròng.
Ý tình nào có khác,
Vị trúc măng tuyệt không.
Cát bụi mai rong ruổi,
Quay đầu nhớ Viễn công.
Thứu thượng nhân chưa rõ là ai.

[1] Một thi xã do các thiền sư Tuệ Viễn 慧遠, Tuệ Vĩnh 慧永, Tuệ Trì 慧持 và 18 nhà nho đời Đông Tấn (Trung Quốc) lập ra ở chùa Đông Lâm ở Lư sơn. Ở đây dùng ví với thiền phòng của Thứu thượng nhân.
[2] Chỉ sự chay tịnh của nhà chùa hoặc vẻ nghèo nàn của học trò. Thơ Tô Đông Pha tặng sư có câu: “Ngữ đới yên hà tòng cổ thiểu, Khí hàm sơ duẩn đáo công vô” 語帶煙霞從古少,氣含蔬筍到公無 (Lời pha khói ráng từ xưa ít, Hơi đượm rau măng bác hẳn không).
[3] Chữ dùng trong Tả truyện, chỉ việc trâu ngựa con cái con đực đi tìm nhau. Hai nước mà trâu ngựa tìm được đến nhau phải có vị trí rất gần gũi. Ở đây dùng theo nghĩa này. Một cách giải thích khác lại cho rằng “mã ngưu phong” chỉ các nơi cách xa nhau.
[] Có lẽ là sư Tuệ Viễn, dùng để chỉ Thứu thượng nhân.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Sưởng » Túc Thứu thượng nhân thiền phòng