28/03/2024 17:14Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Trần
Đăng bởi Vanachi vào 31/07/2008 22:54
Nguyên tác
一曲無生唱了時,
擔橫篳栗故鄉歸。
上頭打過胡何有,
一箇泥牛任倒騎。
Phiên âm
Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì,
Đảm hoành tất lật[1] cố hương quy.
Thượng đầu đả quá hồ hà hữu,
Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky (kỵ)[2].Dịch nghĩa
Khi hát xong khúc hát vô sinh,
Thì cầm ngang ống sáo trở về làng cũ.
Bỏ qua cái trước đây không có gì cả,
Mặc sức cưỡi ngược con trâu đất.Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ
Vừa lúc “vô sinh” dứt khúc ca,
Cầm ngang ống sáo lại quê nhà.
Vượt qua mọi cái “không chi cả”,
Cưỡi ngựa trâu bùn mặc sức ta.
[1] Các bản Thượng sĩ ngữ lục đều viết là 篳栗, có lẽ là “tất lật” 篳篥, là nhạc cụ dạng ống thời xưa dùng trúc làm ống, lau sậy làm miệng, âm thanh buồn thảm, từ Tây Vực thâm nhập vào Trung Quốc thời Hán. Tuệ Trung thượng sĩ nhiều lần sử dụng hình ảnh này.
[2] Các vị tổ thiền tông thường dùng hình ảnh cưỡi ngược nói lên quan điểm trái với thường tình, nhằm dẹp tan sự nhận thức theo quan niệm vốn có sẵn.