26/04/2024 15:42Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Ký hoài Hoàng Ngọc Uẩn Hối Sơn Chân Lạp hành

Tác giả: Trịnh Hoài Đức - 鄭懷德

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 04/07/2018 10:55

 

Phiên âm

Viên mai tiêu bạch, cúc từu hoàng,
Phồn tháp[1] trần sinh thảo mộng mang.
Đắc lộ côn bằng[2] nam đồ hải,
Ly quần hồng nhạn[3] dạ minh sương,
Thạch thành[4] tuý phỏng chung mai tích,
Kim tháp[5] nhàn bình bố hệ phương.
Lao ngã Dữu lâu[6] tần ỷ vọng,
Thê mê lãnh thu thuỷ thương mang.

Dịch nghĩa

Mai vườn rụng trắng, cúc nhú vàng,
Giường Trần Phồn bụi đóng, mộng cỏ bận bịu.
Côn bằng gặp đường mây bay về nam vượt biển,
Lìa đàn hồng nhạn đêm kêu sương.
Thạch thành say tìm dấu tích chôn chuông,
Nhàn bàn về cách lấy vải buộc tháp vàng lại.
Nhọc công ta lầu Dữu cứ trông ngóng hoài,
Cây lạnh mờ mịt, nước mênh mang.

Bản dịch của Hoài Anh

Mai rụng trắng, cúc nhú vàng,
Giường Phồn bụi đóng, mộng xoàng cũng say.
Côn bằng vượt biển tung mây,
Đêm nghe hồng nhạn lạc bầy kêu thương.
Thạch thành hỏi dấu chôn chuông,
Chuyện bàn vải buộc tháp vàng khỏi trôi.
Nhọc ta lầu Dữu trông vời,
Cây thời mờ mịt, nước thời mênh mang.
Hoàng Ngọc Uẩn Hối Sơn là người quê quán huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Năm 1801, ông trúng tuyển khoa thi chọn nhân tài, được bổ làm Tham mưu rồi đổi sang Hàn lâm viện Thị độc. Ông từng đi sứ Trung Quốc hai lần và sang Xiêm. Sau ông làm Cai bạ, rồi làm Tả tham tri bộ Hình và Hiệp trấn Nghệ An. Ông có tham gia trong nhóm Sơn hội.

[] Giường của Trần Phồn, đời Hậu Hán.
[2] Cá côn và chim bằng. Có câu “côn bằng đắc lộ” ý chỉ kẻ sĩ gặp thời tha hồ bay nhảy.
[3] Chỉ những người phiêu bạc khi bị loạn lạc hay gặp tai biến.
[4] Tác giả tự chú: Phía Tây Nam nước Chân Lạp, giữa rừng núi hoang vu có chùa Đế Thích là nơi Phật ngồi tịnh hoá thành. Từ đó, đi một ngày đường mới tới thành cổ. Tương truyền là thành Đại Tần của Tây Nhung xưa. Biển chữ trong thành đều tiêu mất, nhưng cung điện, bao lơn toàn bằng đá trắng, chạm trổ rõ ràng tinh xảo. Người đi trên sân nghe như tiếng chuông. Tục truyền dưới nền có chôn chuông, giữa khoảng trống có đặt máy, khi người bước chân lên đá, máy cử động ắt chuông kêu.
[5] Tác giả tự chú: Bờ phía đông sông Nam Vang có một ngôi tháp xưa, trên có khảm một bầu vàng, hiệu là Kim tháp, cũng gọi là Kim đài. Tục truyền có tích nước dâng, một cái tháp trôi theo dòng, một nhà sư Cao Miên lấy sợ vải chín mối làm phép buộc lại, rồi giữ tháp luôn nơi đó, ngày nay đã thánh gò.
[6] Lầu của Dữu Lượng đời Đông Tấn.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trịnh Hoài Đức » Ký hoài Hoàng Ngọc Uẩn Hối Sơn Chân Lạp hành