26/04/2024 09:39Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hồi 15

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 29/06/2005 11:14

 

Đổi xác trao thây, quân ưng khuyển lộn xòng lắm kế,
Đang bà hoá tớ, kiếp hồng nhan đày đoạ thăm đường.
(Câu 1607-1786)


Thưa nhà huyên hết mọi tình
Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen
Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen[1]
1610. Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày
Lâm Chuy đường bộ tháng chầy
Mà đường hải đạo[2] sang ngay thì gần
1615. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về
Làm cho, cho mệt, cho mê
Làm cho đau đớn, ê chề cho coi!
Trước cho bõ ghét những người
1620. Sau cho để một trò cười về sau!
Phu nhân khen chước rất mầu[3]
Chiều con, mới dạy mặc dầu ra tay
Sửa sang buồm[4] gió, lèo[5] mây
Khuyển, Ưng[6] lại lựa một bầy côn quang[7]
1625. Dặn dò hết các mọi đường
Thuận phong[8] một lá[9], vượt sang bên Tề

Nàng từ chiếc bóng song the
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu
Bóng dâu đã xế ngang đầu
1630. Biết đâu ấm lạnh[10], biết đâu ngọt bùi[11]
Tóc thề đã chấm ngang vai
Nào lời non nước[12], nào lời sắt son[13]
Sắn bìm[14] chút phận cỏn con
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
1635. Thân sao nhiều nỗi bất bằng
Liều như cung Quảng[15] ả Hằng, nghĩ nau!
Đêm thu gió lọt song đào
Nửa vành trăng khuyết, ba sao[16] giữa trời
Nén hương đến trước thiên đài
1640. Nỗi lòng khấn chứa cạn lời vân vân...
Dưới hoa dậy lũ ác nhân
Ầm ầm khốc quỷ, kinh thần[17] mọc ra
Đầy sân gươm tuốt sáng loà
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao
1645. Thuốc mê đâu đã tưới vào
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì!
Vực ngay lên ngựa tức thì
Phòng đào viện sách, bốn bề kửa dong;

Sẵn thây vô chủ bên sông
1650. Đem vào để đó lận sòng ai hay
Tôi đòi phách lạc, hồn bay
Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình
Thúc ông nhà cũng gần quanh
Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời
1655. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao
Gió cao, ngọn lửa càng cao
Tôi đòi tìm đủ, nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ, hớt hãi, nhìn nhau
1660. Giếng sâu, bụi rậm, trước sau tìm quàng;
Chạy vào chốn cũ phòng hương
Trong tro, thấy một đống xương cháy tàn
Ngay tình ai biết mưu gian
Hẳn nàng, thôi lại còn bàn rằng ai!
1665. Thúc ông sụt sùi ngắn dài
Nghĩ con vắng vẻ, thương người nết na
Di hài[18] nhặt sắp về nhà
Nào là khâm liệm[19], nào là tang trai
Lễ thường đã đủ một hai
1670. Lục trình[20] chàng cũng đến nơi bấy giờ
Bước vào chốn cũ lầu thư
Tro than một đống, nắng mưa bốn tường
Sang nhà cha, tới trung đường[21]
Linh sàng[22], bài vị[23], thờ nàng ở trên
1675. Hỡi ôi! Nói hết sự duyên
Tơ tình đứt ruột, lửa phiền cháy gan
Gieo mình vật vã khóc than:
Con người thế ấy, thác oan thế này!
Chắc rằng mai trúc lại vầy
1680. Ai hay vĩnh quyết[24] là ngày đưa nhau!
Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau
Dễ ai rấp thảm, quạt sầu cho khuây

Gần miền nghe có một thầy
Phi phù trí quỷ[25], cao tay thông huyền[26]
1685. Trên tam đảo[27], dưới cửu tuyền[28]
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng
Sắm sanh lễ vật rước sang
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han
Đạo nhân[29] phục trước tĩnh đàn[30]
1690. Xuất thần[31] giây phút chưa tàn nén hương
Trở về minh bạch nói tường:
Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra:
Người này nặng kiếp oan gia
Còn nhiều nợ lắm, sao đà thác cho!
1695. Mệnh cung[32] đang mắc nạn to
Một năm nữa mới thăm dò được tin
Hai bên giáp mặt chiền chiền[33]
Muốn nhìn mà chẳng được nhìn lạ thay!
Nghe lời nói, lạ dường này!
1700. Sự nàng đã thế, lời thầy dám tin?
Chẳng qua đồng cốt[34] quàng xiên
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!
1705. Nước trôi hoa rụng đã yên
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian!

Khuyển, Ưng đã dắt mưu gian
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền
Buồm cao, lèo thẳng cánh suyền[35]
1710. Đè chừng huyện Tích, băng miền vượt sang
Dỡ đò, lên trước sảnh đường
Khuyển, Ưng, hai đứa nộp nàng dâng công
Vực nàng tạm xuống môn phòng
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai
1715. Hoàng lương[36] chợt tỉnh hôn mai[37]
Cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây?
Bàng hoàng giở tỉnh giở say
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu
A hoàn[38] liền xuống giục mau
1720. Hãi hùng nàng mới theo sau một người
Ngước trông toà rộng, dãy dài
Thiên quang trủng tể[39] có bài treo trên
Ban ngày, sáp thắp hai bên
Giữa giường thất bảo[40], ngồi trên một bà
1725. Gạn gùng ngọn hỏi, ngành tra
Sự mình, nàng đã cứ mà gửi thưa

Bất tình nổi trận mây mưa
Mắng rằng: Những giống bờ thờ quen thân!
Con này chẳng phải thiện nhân
1730. Chẳng màu trốn chúa, thì quân lội chồng
Ra tuồng mèo mả gà đồng[41]
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
Đã đem mình bán cưa tao
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
1735. Nào là gia pháp[42] nọ bay!
Hãy cho ba chục, biết tay một lần!
A hoàn trên dưới dạ rân
Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào!
Trúc côn[43] ra sức đập vào
1740. Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh!
Xót thay đào lý[44] một cành
Một phen mưa gió tan tành một phen!
Hoa nô, truyền dạy đổi tên
Buồng the, dạy ép vào phiên thị tỳ[45]
1745. Ra vào theo lũ thanh y[46]
Dãi đầu tóc rối, da chì quản bao!

Quản gia[47] có một mụ nào
Thấy người, thấy nết, ra vào mà thương
Khi chè chén, khi thuốc thang
1750. Đem lời phương tiện[48] mở đường hiếu sinh[49]
Dạy rằng: May rủi đã đành
Liễu bồ[50] mình giữ lấy mình cho hay
Cũng là oan nghiệp[51] chi đây
Sa cơ mới đến thế này, chẳng dung
1755. Ở đây tai vách mạch dừng[52]
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi
Kẻo khi sấm sét bất kỳ
Con ong, cái kiến, kêu gì được oan!
Nàng càng giọt ngọc như chan
1760. Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây
Phong trần[53] kiếp đã chịu đày
Lầm than, lại có thứ này bằng hai!
Phận sao bạc chẳng vừa thôi?
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan!
1765. Đã đành túc trái tiền oan[54]
Cũng liều ngọc nát, hoa tàn mà chi!

Những là nương náu qua thì
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia
Mẹ con trò chuyện lân la
1770. Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
Tiểu thư dưới trướng thiếu người
Cho về bên ấy, theo đòi lầu trang.
Lĩnh lời, nàng mới theo sang
Biết đâu địa ngục[55], thiên đường[56] là đâu?
1775. Sớm khuya khăn mặt, lược đầu
Phận con hầu, giữ con hầu, dám sai!
Phải đêm êm ả chiều trời
Trúc tơ[57], hỏi đến nghề chơi mọi ngày
Lĩnh lời, nàng mới lựa dây
1780. Nỉ non thánh thót, dễ say lòng người
Tiểu thư xem cũng thương tài
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân
Cửa người đày đoạ chút thân
Sớm năn nỉ bóng, đêm ngơ ngẩn lòng
1785. Lâm Chuy chút nghĩa đèo bòng
Nước bèo để chữ tương phùng[58] kiếp sau!
[1] Thành ngữ: “Ngứa ghẻ, hờn ghen”, ý nói hai điều khó chịu nhất.
[2] Đường biển.
[3] Mầu nhiệm: mẹ Hoạn thư khen cái mưu ấy rất điệu rất hay.
[4] Lá buồm.
[5] Dây treo buồm.
[6] Khuyển: chó; ưng: chim cắt. Chỉ hai loài vật dùng để đi săn, ở đây dùng để đặt tên cho bọn tôi tớ trung thành của họ Hoạn.
[7] Cũng như côn đồ, dùng để chỉ bọn vô lại.
[8] Thuận gió.
[9] Một lá buồm, Kiều lúc ấy đang ở Lâm Tri. Lâm Tri nguyên là kinh đô nước Tề xưa, nên gọi là bến Tề.
[10] Do chữ ôn sảnh (đông ôn hạ sảnh).
[11] Do chữ cam chỉ, ý nói làm con phải quạt nồng ấm lạnh và phụng dưỡng những thức ngon lành cho cha mẹ.
[12] Lời chỉ non thề biển.
[13] Lời trung thành vững chắc như sắt như son.
[14] Do chữ cát đằng mà ra. Xem chú thích câu 902.
[15] Cung Quảng hàn trong mặt trăng, ả Hằng tức ả Hằng Nga trong cung. Hằng Nga là vợ Hậu Nghệ, trộm thuốc trường sinh của chồng rồi chạy lên ở một mình trên cung trăng. Câu này đại ý nói thôi thì liều sống một mình như Hằng Nga trong cung Quảng Hàn vậy.
[16] Do chữ trong Kinh thi: “Tam tinh tại thiên” (Ba sao ở trời). Ở đây tác giả chỉ mượn câu ấy để nói đêm đó ngoài song gió thổi, giữa trời có trăng có sao v.v...
[17] Khốc quỷ, kinh thần: quỷ thần khóc, thần phải sợ, ý nói rất ghê sợ.
[18] Hài cốt sót lại.
[19] Lễ mặc quần áo mới và bọc vải lụa cho người chết trước khi bỏ vào áo quan. Tang trai: Lễ đưa ma và làm chay.
[20] Đi đường bộ.
[21] Nhà chính giữa.
[22] Giường thờ.
[23] Mảnh gỗ viết tên người chết để thờ.
[24] Cũng như vĩnh biệt, từ biệt hẳn, không bao giờ gặp nhau nữa.
[25] Đốt bùa mà gọi được quỷ đến.
[26] Thông cảm được với cõi huyền bí, tức cõi quỷ thần.
[27] Ba đảo tiên: Bồng lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Người ta thường dùng để chỉ cõi thiêng liêng hoặc cõi tiên.
[28] Chín suối, tức là âm phủ.
[29] Cũng như đạo sĩ, chỉ ông thấy pháp.
[30] Đàn thờ thần thánh của bọn thầy pháp.
[31] Linh hồn thầy pháp thoát ra ngoài thể xác để đi vào cõi thần linh.
[32] Cung là bản mệnh, một trong 12 cung của số Tử Vi. Sách số có câu: “Cung mệnh mà có sao Bột chiếu vào thì người ấy mắc nạn”. Câu này đại ý nói xem số Thuý Kiều thì đang mắc nạn to.
[33] Tiếng cổ, có nghĩa là rành rành, hoặc liền liền.
[34] Ông đồng, bà cốt, những người làm nghề câu đồng, câu bóng.
[35] Cánh buồm đi nhanh.
[36] Kê vàng. Xưa Lư sinh đời Đường đi thi gặp ông già họ Lã cho mượn cái gối nằm ngủ. Chàng mơ thấy mình thi đỗ, làm quan vinh hoa phú quý hơn 20 năm. Lúc tỉnh giấc thì nồi kê của nhà hàng nấu chưa chín. Người sau bèn dùng hai chữ hoàng lương để chỉ giấc mơ.
[37] Xưa có người gặp cô gái trong rừng, cùng uống rượu, sáng dậy thấy mình nằm dưới gốc cây mai. Đây chỉ có ý nói là giấc mơ màng.
[38] Các đầy tớ gái trẻ tuổi.
[39] Thiên quang là loại quan đứng đầu sáu lại quan do nhà Chu đặt ra. Trủng tể tức là chức tể tướng.
[40] Bảy sản vật quý như vàng, bực, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, trân châu. ở đây chỉ cái giường có khảm các vật quý.
[41] Mèo hoang sống ở mồ mả, gà hoang sống ở ngoài đồng, người ta thường dùng để ví với hạng người lông bông, giang hồ.
[42] Phép tắc trong nhà để trừng phạt gia nhân và tôi tớ.
[43] Gậy tre.
[44] Cây đào, cây lý, thường dùng để chỉ phụ nữ.
[45] Thị tỳ ở nhà quyền quý rất nhiều, chia ra từng ban và từng phiên mà hầu hạ, nên gọi là phiên thị tỳ.
[46] Áo xanh. Đầy tớ gái các nhà giàu sang đời xưa đều mặc áo xanh, nên gọi là thanh y.
[47] Trong gia đình quan lại phong kiến đời xưa thường dùng những người đàn bà đứng tuổi trông coi việc nhà và cai quản số hầu gái, gọi là quản gia.
[48] Ở đây có nghĩa là đối đãi, xử trí mọi việc.
[49] Quí trọng sinh mệnh, ý nói tránh cho người ta con đường khổ sở chết chóc.
[50] Liễu và bồ là hai giống cây mềm yếu thường được dùng để chỉ phụ nữ.
[51] Tiền oan, nghiệp chướng, có ý nói có oan thù và tội lỗi từ thời trước để lại.
[52] Do câu thành ngữ: “Dừng có mạch, vách có tai”. Dừng là cái dứng, cái giát giường, chứ không phải rừng cây như nhiều người nhầm lẫn. Câu “Tai vách mạch dừng” cũng theo nghĩa này, vì chỉ rút một sợi dây là cả cái vách hay cái giát giường sẽ sổ tung.
[53] Nghĩa đen là gió bụi, thường được dùng để chỉ sự khổ sở mà người đời phải chịu.
[54] Nợ nần, oán thù từ kiếp trước để lại.
[55, 56] Địa ngục, thiên đường: theo giáo lý đạo Phật thì những người độc ác sau khi chết phải xuống địa ngục để chịu tội, còn hồn những người lương thiện thì được lên thiên đường, ở đây ý nói nơi khổ ải và nơi sung sướng.
[57] Do chữ ti trúc. Ti là tơ để làm dây đàn, trúc là tre để làm ống sáo. Hai chữ này thường được dùng để chỉ các thứ âm nhạc nói chung.
[58] Gặp nhau. Câu này ý nói Thuý Kiều nghĩ rằng tình nghĩa giữa mình với Thúc Sinh muốn nối lại thì hoạ chăng chỉ ở kiếp khác.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Hồi 15