25/04/2024 12:45Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Kê Khang cầm đài
嵇康琴臺

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 19/12/2005 01:45

 

Nguyên tác

琴臺古跡記嵇康,
人死琴亡臺亦荒。
文武七絃終寂寂,
東西兩晉亦茫茫。
至今不朽惟童性,
此後何人到醉鄉。
嘆息廣陵絃絕後,
琵琶新譜半胡姜。

Phiên âm

Cầm đài cổ tích ký Kê Khang,
Nhân tử cầm vong đài diệc hoang.
Văn vũ[1] thất huyền chung tịch tịch,
Đông tây lưỡng Tấn[2] diệc mang mang.
Chí kim bất hủ duy đồng tính,
Thử hậu hà nhân đáo tuý hương[3].
Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu,
Tỳ bà tân phổ bán Hồ Khương[4].

Dịch nghĩa

Sách xưa ghi “Cầm đài” là của Kê Khang
Người chết, đàn mất, đài cũng bỏ hoang
Bảy dây văn vũ cuối cùng đã im bặt
Hai nước Đông Tấn, Tây Tấn cũng mất tăm
Đến nay cái bất hủ ở ông còn lại là tính trẻ con
Sau đó ai là người đến với làng say?
Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng nay đã thất truyền
Bài nhạc mới đàn tì bà, một nửa là theo điệu Hồ Khương.

Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

"Cầm đài" sách cũ chép Kê Khang
Người mất, đàn tiêu, đài bỏ hoang
Văn vũ bảy dây thôi bặt tiếng
Đông tây hai Tấn cũng mù tăm
Trời cho tính trẻ không hề đổi
Ai nhớ làng say có đến thăm
Bài nhạc Quảng Lăng không kẻ nối
Tì bà điệu mới nửa Hồ Khương
Kê Khang (233-262) tự Thúc Dạ 叔夜, người đời Tấn, ở đất Trất (nay thuộc huyện Túc, tỉnh An Huy 安徽). Dòng họ Hề, lánh nạn đến Kê Sơn, do đó tự đặt hiệu là Kê Khang. Ông là một trong Trúc Lâm thất hiền 竹林七賢. Sau bị Tư Mã Chiêu 司馬昭 giết. Khi lâm hình ông vẫn ung dung gảy khúc Quảng Lăng tán 廣陵散. Đàn xong nói: “Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không ai còn đàn bài Quảng Lăng này nữa”. Truyện Kiều có câu: “Kê Khang này khúc Quảng Lăng, Một rằng Lưu thuỷ hai rằng Hành Vân”. Cầm đài là chỗ Kê Khang đánh đàn. Truyện Kiều có câu: “Rằng nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ”.

[1] Dây đàn. Vũ là dây to, văn là dây nhỏ. Truyện Kiều có câu: “So dần dây vũ dây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương”.
[2] Tức Đông Tấn và Tây Tấn.
[3] Làng say. Trong nhiều bài thơ cổ của nhiều tác giả, “tuý hương” chỉ ý niệm không gian lúc say rượu. Trong Tuý hương ký của Vương Tích: “Làng say không thuộc Trung Quốc, chẳng biết rộng mấy ngàn dặm, bao la không bến bờ. Ở đó không có nóng lạnh, nên tập tục đại đồng, không có sớm tối nên khí hậu ôn hoà, không có làng xóm quần tụ nên nhân vật thanh nhã”. Câu này ý nói uống rượu để tìm quên.
[4] Người Hồ, ở miền tây bắc Trung Quốc.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Kê Khang cầm đài