28/04/2024 04:52Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Khiển muộn
遣悶

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 14/05/2015 00:56

 

Nguyên tác

地闊平沙岸,
舟虛小洞房。
使塵來驛道,
城日避烏檣。
暑雨留蒸濕,
江風借夕涼。
行雲星隱見,
疊浪月光芒。
螢鑒緣帷徹,
蛛絲罥鬢長。
哀箏猶憑幾,
鳴笛竟沾裳。
倚著如秦贅,
過逢類楚狂。
氣沖看劍匣,
穎脫撫錐囊。
妖孽關東臭,
兵戈隴右創。
時清疑武略,
世亂局文場。
餘力浮於海,
端憂問彼蒼。
百年從萬事,
故國耿難忘。

Phiên âm

Địa khoát bình sa ngạn,
Châu hư tiểu động phòng.
Sứ trần lai dịch đạo,
Thành nhật tị ô tường.
Thự vũ lưu chưng thấp,
Giang phong tá tịch lương.
Hành vân tinh ẩn hiện,
Điệp lãng nguyệt quang mang.
Huỳnh giám duyên duy triệt,
Thù ti quyên mấn trường.
Ai tranh do bằng kỷ,
Minh địch cánh triêm thường.
Ỷ trước như Tần chuế[1],
Qua phùng loại Sở cuồng[2].
Khí xung khan hạp kiếm,
Dĩnh thoát phủ chuỳ nang.
Yêu nghiệt[3] Quan Đông xú,
Binh qua Lũng Hữu thương.
Thời thanh nghi vũ lược,
Thế loạn cục văn trường.
Dư lực phù ư hải,
Đoan ưu vấn bỉ thương.
Bách niên tòng vạn sự,
Cố quốc cảnh nan vương.

Dịch nghĩa

Đất rộng bờ cát phẳng,
Trên chiếc thuyền trống, phòng nhỏ xíu.
Các viên chức nhà vua đi trên đường cái quan đầy bụi,
Ban ngày cột buồm có hình con quạ dừng lại bên thành.
Mưa rào làm không khí thêm nực nội,
May nhờ được gió sông nên hơi mát.
Mây bay đôi lúc để lộ ra sao trời,
Sóng gối đầu khiến trăng thêm sáng láng.
Đom đóm lập loè trong bức màn,
Nhện giăng tơ những sợi dài.
Tựa ghế nghe thấy tiếng đàn buồn,
Tiếng sáo vọng khiến nước mắt ướt áo.
Bị dính vào cảnh ở rể như phong tục Tần,
Gặp những người như Sở cuồng.
Ý chí nổi lên khi thấy bao gươm,
Mũi dao lòi ra bèn vỗ túi đựng gậy sắt.
Vùng Quan Đông hơi hôi thối bốc,
Chiến tranh gây tai hại cho vùng Lũng Hữu.
Lúc yên lành chẳng cần chính sách quân sự,
Đời loạn thì chợ văn ế ẩm.
Sức sống thừa bập bềnh nơi biển cả,
Đem mối lo ngại ra mà hỏi trời vậy.
Cuộc đời có biết bao nhiều là việc,
Mà lòng nhớ quê xưa nào có khuây.

Bản dịch của Phạm Doanh

Đất rộng bờ cát phẳng,
Phòng nhỏ trống, con thuyền.
Đường quan, sứ đi lại,
Buồm chiều đậu thành bên.
Mưa rào thêm oi bức,
Gió sông mát về đêm.
Mây trôi sao ẩn hiện,
Sóng dồn trăng sáng thêm.
Đóm sao bám màn mỏng,
Nhện giăng tơ sợi mềm.
Đàn buồn, thân dựa ghế,
Sáo vọng, lệ triền miên.
Đã mang kiếp ở rể,
Gặp rặt những kẻ điên.
Vỗ túi dùi, lòi mũi,
Căm bao gươm, khi nhìn,
Quan Đông quỷ bốc thối,
Lũng Hữu giặc gây phiền.
Chợ văn ế lúc loạn,
Nghề võ rẻ khi yên.
Sức thừa nổi bể dưới,
Lòng lo hỏi trời trên.
Cuộc đời hàng vạn chuyện,
Quê cũ làm sao quên!
(Năm 768)

[1] Tác giả nói mình nghèo, cụm từ mượn từ câu nói của Giả Nghị "Người Tần, nhà giàu thì cưới dâu về, nhà nghèo thì cho đi ở rể".
[2] Người cuồng nước Sở, tên là Tiếp Dư, chỉ kẻ bất đắc chí.
[3] Chỉ loạn An-Sử.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Khiển muộn