26/04/2024 07:09Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thiên Du quán Vạn Phong đình
天遊觀萬峰亭

Tác giả: Chu Di Tôn - 朱彝尊

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thanh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 31/03/2019 10:40

 

Nguyên tác

大山相排連,
小山補其闕。
群峰罕異向,
危亭乃孤揭。
適當地敞閒,
不在勢突兀。
虛明徹戶牖,
豁達埽煙㶿。
蕩空激飆輪,
照夜湧日軏。
有時霧著巾,
忽焉雲觸襪。
憑欄恣眺聽,
靈境信超越。
儼同喬岳尊,
遠邇盡朝謁。
紛紛揚旌旃,
穆穆秉圭笏。
又疑三海圖,
神物互出沒。
足或蹺夔魑,
背或負蛩蟨。
前平訝象耕,
後陷類狐搰。
隱屏翕而張,
接筍斷不蹶。
長松偃薺菜,
細竹披苗髮。
溪流乍隱見,
祠屋半雕歇。
巋然此獨存,
坐久興逾發。
雖雲冠山椒,
何異在岩窟。
石房一道士,
清臒老鶴骨。
延我崎嶇邱,
靜掃苔徑滑。
苦無青精飯,
力為煮葵蕨。
高田歲未荒,
四月草先垡。
分種及胡麻,
安碓響深樾。
相對生隱心,
欲歸恨倉卒。
何當裹餱糧,
留住一百月。

Phiên âm

Đại sơn tương bài liên,
Tiểu sơn bổ kỳ khuyết.
Quần phong hãn dị hướng,
Nguy đình nãi cô yết.
Thích đáng địa xưởng nhàn,
Bất tại thế đột ngột.
Hư minh triệt hộ dũ,
Khoát đạt tảo yên bột.
Đãng không kích tiêu luân[1],
Chiếu dạ dũng nhật ngột[2].
Hữu thì vụ trước cân,
Hốt yên vân xúc miệt[3].
Bằng lan tứ diểu thinh,
Linh cảnh tín siêu việt.
Nghiễm đồng kiều nhạc tôn[4],
Viễn nhĩ tận triều yết.
Phân phân dương tinh chiên,
Mục mục bỉnh khuê hốt.
Hựu nghi Tam Hải[5] đồ,
Thần vật hỗ xuất một.
Túc hoặc nghiêu quỳ si[6],
Bối hoặc phụ cùng quyết[7].
Tiền bình nhạ tượng canh[8],
Hậu hãm loại hồ cốt[9].
Ẩn Bình[10] hấp nhi trương,
Tiếp Duẩn[11] đoạn bất quyết.
Trường tùng yển tể thái[12],
Tế trúc phi miêu phát.
Khê lưu sạ ẩn hiện,
Từ ốc bán điêu yết.
Khuy nhiên thử độc tồn,
Toạ cửu hứng du phát.
Tuy Vân quán sơn tiêu,
Hà dị tại nham quật.
Thạch phòng nhất đạo sĩ,
Thanh cù lão hạc cốt.
Diên ngã kỳ khu khâu,
Tĩnh tảo đài kính hoạt.
Khổ vô thanh tinh phạn[13],
Lực vi chử quỳ quyết.
Cao điền tuế vị hoang,
Tứ nguyệt thảo tiên phạt.
Phân chủng cập Hồ ma[14],
An đối hưởng thâm việt.
Tương đối sinh ẩn tâm,
Dục quy hận thảng thốt.
Hà đương khoả hầu lương,
Lưu trú nhất bách nguyệt.

Dịch nghĩa

Núi lớn rải nối nhau liên tiếp
Núi nhỏ chèn vào chỗ hở
Rất ít ngọn núi chạy hướng khác
Ngôi đình cao vút
Trên khoảng đất rộng bằng
Không ở vào thế chon von
Cửa rộng tràn ánh sáng
Thoáng đãng không mù sương
Trời rộng gió thổi vù vù
Mặt trời lên xua tan bóng đêm
Có khi mây thoảng qua như chít khăn
Có khi lại quấn chân chạm tất
Tựa lan can mặc sức nhìn ra xa
Nơi địa linh này tin vào bậc nhất
Nghiễm nhiên cao cùng với Thái San
Xa gần đều quay về chầu
Tua tủa như tinh kỳ dương lên
Nghiêm túc như đang cầm cây hốt
Lại ngỡ là bức tranh Tam Hải
Nơi ẩn hiện của các bậc thân tiên
Hoặc có chân như quỳ si
Hoặc lưng cõng như cùng quyết
Đàng trước bằng ngờ là có voi cày
Đàng sau lại sâu xuống giống cáo đào
Núi Ẩn Bình như khép như mở
Núi Tiếp Duẩn đứt ra mà không dứt
Tùng cao trông sè sè như tể thái
Tre nhỏ như tóc mới mọc
Dòng suối chảy lúc ẩn lúc hiện
Mái đền nửa đã đổ nát
Sừng sững riêng đình vẫn còn
Ngồi lâu hứng càng nổi
Tuy đứng trên đỉnh núi
Khác nào trong động tiên
Phòng đá có một đạo sĩ
Thanh nhã như dáng hạc già
Đưa ta lên gò cao
Lối đi rộng quét sạch rêu trơn
Khổ là không có cơm thanh tinh
Gắng đun rau quỳ rau quyết
Ruộng núi cũng không bỏ hoá
Tháng tư, cỏ đã bị cuốc lật lên
Chia luống gieo hạt hồ ma
Tiếng chày gạo vang trong bóng cây
Nhìn cảnh sinh lòng ẩn cư
Muốn về ngay sợ là quá vội vã
Làm thế nào gói được lương khô
Lên ở nơi này một trăm tháng

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Núi lớn nối liền nhau
Núi nhỏ bù chỗ khuyết
Mọi núi ít trái hướng
Riêng đình đứng cao vút
Trên khoảng đất rộng bằng
Không phải thế chót vót
Cửa rộng tràn ánh sáng
Thoáng đãng không mờ mịt
Trời rộng bánh xe lăn
Xua bóng đêm tan hết
Có lúc mây như khăn
Có khi mù chạm tất
Tựa lan can nhìn xa
Đất thiêng tin là nhất
Cùng tôn ngang Thái San
Xa gần đều triều yết
Dương tua tủa quạt cờ
Nghiêm túc như cầm hốt
Ngỡ là tranh Tam Hải
Nơi thần tiên hiện khuất
Hoặc như chân quỳ, si
Hoặc như lưng còng, quyết
Trước bằng ngờ voi cày
Sau sâu như cáo khoét
Ẩn Bình mở lại khép
Tiếp Duẩn đứt không dứt
Tùng trông như tể thái
Tre như mầm tóc mượt
Dòng khe ẩn lại hiện
Mái đền nửa đổ nát
Sừng sững đình vẫn còn
Ngồi lâu hứng rào rạt
Tuy ở trên đỉnh núi
Như động tiên phảng phất
Phòng đá một đạo sĩ
Hạc thanh kỳ cách cốt
Dắt ta lên gò cao
Đường thoáng rêu trơn quét
Chỉ thiếu cơm thanh tinh
Cố gắng đun quỳ quyết
Ruộng núi không để hoá
Cỏ tháng tư cuốc lật
Chia luống gieo Hồ ma
Chày vọng nơi bóng mát
Nhìn, dậy lòng ẩn cư
Về ngay e thảng thốt
Bao giờ thể đem lương
Trăm tháng ở đây biệt.
Tác giả làm vào năm Khang Hy thứ 37, tả phong cảnh vùng đỉnh Thiên Du ở núi Vũ Di.

[1] Bánh xe điều khiển gió đi trong thần thoại.
[2] Cái chốt của xe chở mặt trời, chỉ mặt trời lên xua tan bóng đêm.
[3] Ý là đình ở nơi cao, mây mù quấn đầu quấn chân.
[4] Chỉ Thái Sơn, núi được tôn trong ngũ nhạc.
[5] Chỉ ba ngọn núi thần trên biển, vì ở đây núi bồng bềnh trong mây mù tựa như trên biển.
[7] Cùng: thú trong truyền thuyết thời cổ đại, màu xanh hình như ngựa. Quyết: tên thú trong truyền thuyết, chân trước giống chuột, chân sau giống thỏ, tự đi không nổi, dựa vào con cùng cõng đi, ý là núi chồng ghé lên nhau, như con cùng cõng con quyết.
[6] Quỳ: quái vật một chân trong thần thoại, là thần của núi rừng. Si: thần núi trong truyền thuyết. Câu này ý nói hình dáng lạ lùng của núi.
[8] Truyền thuyết Thuấn chết chôn ở núi Thương Ngô, có bầy voi cày ruộng ở chân núi. Câu này ý là đất đàng trước đình bằng phẳng.
[9] Cáo đào. Ngạn ngữ cổ có câu “Cáo đem chôn, cáo lại đào lên không thành công”. Câu này ý là đàng sau đình có khoảng đất trũng.
[10] Đỉnh núi Ẩn Bình ở khe Cửu Khúc, thế núi dựng đứng như bình phong. Có dáng trên to dưới nhỏ, tựa như mở khép.
[11] Đỉnh Tiếp Duẩn ở bên phải đỉnh Ẩn Bình, mọc lên như măng, trên nứt ra thành ba ngọn, tựa như đứt ra thực lại là liền.
[12] Tên cây thuốc đông y.
[13] Dùng lá cành cây nam chúc giã ra, vắt nước tẩm vào gạo, phơi khô, gạo có màu xanh. Đạo gia cho là ăn thứ gạo này lâu dài có thể tăng tuổi thọ.
[14] Vừng. Trương Khiên đời Hán, lấy giống này ở Tây Vực, cho nên gọi là Hồ ma.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Chu Di Tôn » Thiên Du quán Vạn Phong đình