26/04/2024 06:05Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Xuân khuê
春閨

Tác giả: Tùng Thiện Vương - 從善王

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 02/01/2019 21:44

 

Nguyên tác

雙婀兩槳唱前溪,
百丈遊絲九陌西。
千里音書空憶雁,
半春情緒倦聞雞。
七囊錦字裁難寄,
六幅珠簾捲未齊。
二十四橋三五夜,
一聲八尺萬行啼。

Phiên âm

Song a lưỡng tưởng xướng tiền khê,
Bách trượng du ti cửu mạch tê.
Thiên lý âm thư không ức nhạn,
Bán xuân tình tự quyện văn kê.
Thất nang cẩm tự tài nan ký,
Lục bức châu liêm quyển vị tề.
Nhị thập tứ kiều[1] tam ngũ dạ,
Nhất thanh bát xích vạn hàng đề.

Dịch nghĩa

Đôi gái cắp đôi chèo đứng hát trước khe,
Trăm trượng tơ bay phấp phới trên không đều phát ra từ chín nẻo ở phương tây.
Trông nhạn trên không mang đến tin tức ngoài ngàn dặm,
Tình tự nửa chừng xuân đã mỏi mệt khi nghe tiếng gà gáy.
Khó gửi ý tứ vào chữ dệt thành gấm đựng trong bảy cái đãy,
Sáu tấm rèm châu cuốn lên chưa đều.
Khoảng canh ba, canh năm ở 24 cây cầu,
Một tiếng sáo cất lên thì có hàng vạn tiếng sáo cùng hoà theo.

Bản dịch của Quách Tấn

Khe trong liễu lục phủ đôi bờ,
Chín khúc đường quanh trăm trượng tơ.
Tình tự nửa song gà thổn thức,
Âm thư nghìn dặm nhạn thờ ơ.
Bảy từ chũ gấm phong im ỉm,
Sáu bức rèm châu thả lững lờ.
Hăm bốn nhịp cầu canh khắc lụn,
Địch dài một tiếng lệ tuôn mưa.
Theo Quách Tấn (trong Hương vườn cũ), Tùng Thiện Vương nhân đọc tập Danh viên của nhà Thanh, thấy vua ra đề Xuân khuê cho các cử tử vào thi đình, đã hạn 5 vận “kê, tê, kê, tề, đề” lại bắt phải dùng vào bài thơ 18 chữ số nhất, nhị.... thập, bách, thiên, vạn, bán, lưỡng, xong, trương, xích. Ông bèn làm bài này để so tài cùng người Trung Hoa.

Bài thơ này được Hà Trì Trần Đình Tân 陳廷賓 (1893-1979) hoạ lại.

[1] Còn có tên là Hồng Dược Kiều, ở huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô (Trung Quốc). Thời xưa có 24 cô gái đẹp thổi sáo tại đây, nên cầu có tên này.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Tùng Thiện Vương » Xuân khuê