09/10/2024 07:41Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi hongha83 vào 26/01/2010 01:22
Nguyên tác
群橘少生意,
雖多亦奚為。
惜哉結實小,
酸澀如棠梨。
剖之盡蠹蟲,
採掇爽其宜。
紛然不適口,
豈只存其皮。
蕭蕭半死葉,
未忍別故枝。
玄冬霜雪積,
況乃回風吹。
嚐聞蓬萊殿,
羅列瀟湘姿。
此物歲不稔,
玉食失光輝。
寇盜尚憑陵,
當君減膳時。
汝病是天意,
吾諗罪有司。
憶昔南海使,
奔騰獻荔支。
百馬死山谷,
到今耆舊悲。
Phiên âm
Quần quất thiểu sinh ý,
Tuy đa diệc hề vi.
Tích tai kết thực tiểu,
Toan sáp như đường lê.
Phẫu chi tận đố trùng,
Thái xuyết sảng kỳ nghi.
Phân nhiên bất thích khẩu,
Khởi chỉ tồn kỳ bì.
Tiêu tiêu bán tử diệp,
Vị nhẫn biệt cố chi.
Huyền đông sương tuyết tích,
Huống nãi hồi phong xuy.
Thường văn Bồng Lai[1] điện,
La liệt Tiêu Tương[2] tư.
Thử vật tuế bất nhẫm,
Ngọc thực thất quang huy.
Khấu đạo thượng bằng lăng,
Đương quân giảm thiện thì.
Nhữ bệnh thị thiên ý,
Ngô thẩm tội hữu ty.
Ức tích Nam Hải[3] sứ,
Bôn đằng hiến lệ chi.
Bách mã tử sơn cốc,
Đáo kim kỳ cựu bi.Dịch nghĩa
Mọi trái quít đều nhỏ,
Tuy nhiều cũng chẳng được việc gì.
Than ôi! Quả đã nhỏ,
Lại chua và chát như trái lê dại.
Bổ ra có sâu và bọ,
Hái xuống làm gì bây giờ.
Tất nhiên là không ngon miệng,
Há chẳng chỉ còn vỏ (để làm thuốc) sao.
Lá rầu rầu sắp chết,
Chưa nỡ lìa khỏi cành.
Mùa đông u tối vì sương và tuyết,
Lại còn gió thổi trở lại.
Ta từng nghe ở điện Bồng Lai nơi vua ở,
Bầy đầy sản vật (quýt) của đất Tiêu Tương.
Hàng năm đến mùa mà thiếu món này,
Thức ăn dâng vua mất vẻ sáng.
Nay trộm cướp đang hoành hành,
Là lúc đương kim hoàng thượng giảm bớt thức ăn.
Mi ngã bệnh là theo ý trời,
Ta buồn vì tội các quan (để đất nước loạn lạc).
Nhớ xưa sứ giả đi Nam Hải,
Chạy ngày đêm đặng lấy trái vải về dâng vua.
Hàng trăm con ngựa chết vì kiệt sức trên non cao hốc thẳm,
Đến nay người già vẫn thương xót cho truyện xưa.Bản dịch của Phan Ngọc
Đám quýt mọc xơ xác
Tuy nhiều phỏng ích gì
Tiếc thay quả bé tí
Ăn vào chua lét le
Mở ra sau bọ hết
Dù chọn theo sở thích
Cũng chẳng cách nào ăn
Ngoài vỏ còn có ích
Leo heo lá vừa chết
Không nỡ rời cành xưa
Đông hết đầy sương tuyết
Huống gió núi đẩy xô
Nghe nói điện Bồng Lai
Quýt Tiêu Tương la liệt
Thức này ăn suốt năm
Thiếu nó ngon ngọt mất
Giặc cướp còn xâm lấn
Vua ta giảm thức ăn
Ý trời muốn mày ốm
Ta buồn trách các quan
Nhớ xưa sứ Nam Hải
Rong ruổi lo dâng vải
Trăm ngựa chết trên non
Đau xót nay còn mãi
Đỗ Phủ viết bài này khoảng năm 761 khi ông cùng gia quyến ở thảo đường đã được một năm. Nếp sống thảnh thơi vì đủ cơm ăn áo mặc. Đây là lúc ông sáng tác mạnh nhất...
[1] Là nơi thần tiên trú ngụ không có thực ngoài biển đông (Trung Quốc), trong bài ý chỉ Hoa Thanh cung, gần kinh đô Trường An thời Đường Minh Hoàng, trong giai đoạn ông trở thành hôn quân chỉ lo hưởng lạc bên Dương Quý Phi.
[2] Tên đất nơi sông Tiêu nhập sông Tương, nay trong tỉnh Hồ Nam.
[3] Tên đất, nay là thành phố Quảng Châu trong tỉnh Quảng Đông, nơi sản xuất ra các trái vải ngon nhất nước. Từ Nam Hải tới Hoa Thanh cung, đường dài khoảng 1320km đường chim bay. Tới mùa vải, sứ giả phải đi ngựa hoả tốc, chạy suốt ngày đêm sao cho trái vải về tới cung vẫn còn tươi, ngựa chết vì kiệt sức hàng trăm con như tác giả mô tả trong bài.