26/04/2024 19:39Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Chủng oa cự
種萵苣

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 25/02/2015 14:45

 

Nguyên tác

陰陽一錯亂,
驕蹇不復理。
枯旱于其中,
炎方慘如毀。
植物半蹉跎,
嘉生將已矣。
雲雷欻奔命,
師伯集所使。
指麾赤白日,
澒洞青光起。
雨聲先以風,
散足盡西靡。
山泉落滄江,
霹靂猶在耳。
終朝紆颯遝,
信宿罷瀟灑。
堂下可以畦,
呼童對經始。
苣兮蔬之常,
隨事藝其子。
破塊數席間,
荷鋤功易止。
兩旬不甲坼,
空惜埋泥滓。
野莧迷汝來,
宗生實於此。
此輩豈無秋,
亦蒙寒露委。
翻然出地速,
滋蔓戶庭毀。
因知邪幹正,
掩抑至沒齒。
賢良雖得祿,
守道不封己。
擁塞敗芝蘭,
眾多盛荊杞。
中園陷蕭艾,
老圃永為恥。
登于白玉盤,
藉以如霞綺。
莧也無所施,
胡顏入筐篚。

Phiên âm

Âm dương nhất thố loạn,
Kiêu kiển bất phục lý.
Khô hạn vu kỳ trung,
Viêm phương thảm như huỷ.
Thực vật bán tha đà,
Gia sinh tương dĩ hĩ.
Vân lôi hốt bôn mệnh,
Sư bá[1] tập sở sử.
Chỉ huy xích bạch nhật,
Hống động thanh quang khỉ.
Vũ thanh tiên dĩ phong,
Tán túc tận tây mĩ.
Sơn tuyền lạc thương giang,
Tích lịch do tại nhĩ.
Chung triêu vu táp đạp,
Tín túc bãi tiêu sái.
Đường hạ khả dĩ huề,
Hô đồng đối kinh thuỷ.
Cự hề sơ chi thường,
Tuỳ sự nghệ kỳ tử.
Phá khối sổ tịch gian,
Hà sừ công dị chỉ.
Lưỡng tuần bất giáp sách,
Không tích mai nê chỉ.
Dã hiện mê nhữ lai,
Tông sinh[2] thực ư thử.
Thử bối khởi vô thu,
Diệc mông hàn lộ uỷ.
Phiên nhiên xuất địa tốc,
Tư mạn hộ đình huỷ.
Nhân tri tà cán chính,
Yểm ức chí một xỉ.
Hiền lương tuy đắc lộc,
Thủ đạo bất phong kỷ.
Ủng tắc bại chi lan[3],
Chúng đa thịnh kinh kỷ[4].
Trung viên hãm tiêu ngải[5],
Lão phố vĩnh vi sỉ.
Đăng vu bạch ngọc bàn,
Tạ dĩ như hà khỉ
Hiện dã vô sở thi,
Hồ nhan nhập khuông phỉ.

Dịch nghĩa

Một khi việc thường tình bị nhầm trệch,
Là nó sẽ ương bướng không thể lại quản lý được.
Bên trong thì khô khát,
Nơi vùng nóng bức như thiêu như đốt.
Cây cỏ đều ủ rũ,
Những điềm lành sắp hết rồi vậy.
Sấm chớp vội chạy tới tuân mệnh,
Gió mưa tụ tập để nghe sai khiến.
Vung lá cờ đầu là mặt trời đỏ rực,
Rồi vùng lên là màu xanh sáng loáng.
Tiếng mưa có gió đi trước,
Tản mát, mất hút tại hướng tây.
Thác núi lạc tới sông trong,
Tiếng lách tách còn vang bên tai.
Cả buổi chiều cứ rào rào,
Qua liền hai đêm mới hết cảnh u ám.
Bên thềm có thể đánh luống trồng trọt được,
Gọi trẻ ra cùng khởi sự.
Rau diếp kia, mi chỉ là loại rau tầm thường,
Tuỳ việc mà trồng đến mày.
Vỡ miếng đất rộng khoảng chừng vài cái chiếu,
Cày cuốc, công cũng chóng xong.
Đợi tới hai tuần chẳng thấy nứt vỏ,
Tiếc uổng cái vùi dưới bùn.
Rau dền dại lấn mày mà lan tới,
Chàng Tông thực ở nơi đây.
Cái thứ này hẳn không có mùa thu sao,
Lại phó thân cho sương lạnh lờ mờ.
Bỗng vụt ngóc lên khỏi mặt đất,
Lan nhanh làm nát cả cửa, sân.
Nhân biết cái cong mà sửa lại cho thẳng,
Nung nấu cho tới khi chết.
Người hiền lương tuy được hưởng lộc,
Nhưng giữ trọn cái đạo chứ không chủ ý làm giầu cho mình.
Nếu ngăn chặn thì làm hại cỏ chi cỏ lan,
Nếu thừa bứa thì khiến cho cây gai cây kỉ tươi tốt.
Trong vườn mà cỏ tiêu, cỏ ngải ẩn ngầm trong đó,
Thì lão già làm vườn kia phải mãi mãi thấy xấu hổ.
Được đưa lên trên bàn trắng như ngọc,
Được bày biện đẹp như gấm thêu.
Rau dền dại kia có cái gì để mà khoe đâu,
Sao lại ghé cái bộ mặt vào trong thúng, giỏ.

Bản dịch của Phạm Doanh

Âm dương khi chẳng hoà,
Khó chữa vì cứng cổ.
Tirong quãng không cạn khô,
Vùng nóng nghĩ thật khổ.
Cây cỏ nửa héo hon,
Điềm lành cạn thế đó.
Bỗng ra uy: sấm, mây,
Tuân lệnh là mưa gió.
Trời đỏ chói phất cờ,
Khắp chốn sáng xanh lộ.
Gió mang tiếng mưa theo,
Phía tây tràn tới đủ.
Suối núi nhập sông xanh,
Bên tai còn nghe rõ.
Cả chiều còn rào rào,
Hai đêm mới hết đổ.
Dưới nhà có thể trồng,
Gọi trẻ cùng khởi sự.
Rau diếp, mi loại thường,
Tuỳ việc trồng đến nó.
Cào, bừa công dễ làm,
Khoảng hai chiếu vỡ đủ.
Hai tuần chẳng nẩy mầm,
Vùi đất bùn chẳng bõ.
Dền dại tới lấn mày,
Um tùm chật hết chỗ.
Nhớ thu, chắc bọn này,
Sương lạnh, thân đem phó.
Bỗng nhiên mặt đất chồi,
Lan rộng khắp sân ngõ.
Chữa thẳng khi thấy cong,
Suốt đời sẽ tư lự.
Giữ đạo, lợi không dành,
Bậc hiền, tuy lộc có.
Ngăn giữ, hại chi lan,
Vung rộng, béo gai, cỏ.
Tiêu ngải ẩn trong vườn,
Trồng rau ắt mắc cở.
Bàn ngọc để lên bày,
Trang hoàng gấm sặc sỡ.
Dền kia có gì khoe,
Sao có mặt trong giỏ.
(Năm 767)

Lời tự: “Ký vũ dĩ thu. Đường hạ lý tiểu huề. Cách chủng nhất lưỡng tịch hứa oa cự. Hướng nhị tuần hĩ, nhi cự bất giáp sách. Độc dã hiện thanh thanh. Thương thì quân tử hoặc vãn đắc vi lộc, khảm kha bất tiến. Nhân tác thử thi.” 既雨已秋。堂下理小畦。隔種一兩席許萵苣。向二旬矣。而苣不甲坼。 獨野莧青青。傷時君子或晚得微祿。轗軻不進。因作此詩。 (Vào thu đã có mưa. Cạnh nhà đánh một luống nhỏ, biến thành nơi rộng chừng hai cái chiếu để trồng rau diếp. Quãng hai tuần, mà chưa thấy rau diếp nẩy chồi, Chỉ thấy rau dền dại xanh rì. Thấy thương cho bậc quân tử không gặp thời hoặc chậm có lộc nhỏ, khốn đốn không tiến lên được, vì thế nên làm bài này.)

[1] Do chữ “phong sư vũ bá” 風師雨伯. Theo bài Hà đông phú 河東賦 của Dương Hùng 揚雄: “Sất phong bá ư nam bắc hề, a vũ sư ư đông tây” 叱風伯 於南北兮,呵雨師於東西 (Mắng thầy gió phía nam, bắc chừ, la tổ mưa phía đông tây).
[2] Từ bài Ngô đô phú 吳都賦 của Tả Tư 左思, một văn học gia thời Đông Tấn, tự Thái Xung 太衝, người Lâm Truy, Sơn Đông. Trong bài phú có câu “Tông sinh cao cương, Tộc mậu u phụ” 宗生高岡,族茂幽阜 (Gò cao của chàng Tông, Bụi rậm nơi đồi tối).
[3] Chỉ bậc quân tử.
[4] Thứ cây vô dụng, chỉ lũ tiểu nhân.
[5] Chỉ kẻ có phẩm chất kém.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Chủng oa cự