20/04/2024 03:58Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thác lời gái phường vải

Tác giả: Nguyễn Huy Quýnh - 阮輝烱

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 12/01/2016 14:22

 

Tảng mai[1] Hầu[2] trở ra về
Hồn tương tư hãy còn mê giấc nồng.
Cơi trầu chưa kịp tạ lòng,
Tỉnh ra khách đã non sông mấy vời.
Trời làm chi cực bấy trời,
Cơi trầu này để còn mời mọc ai.
Tím gan đổ hắt ra ngoài,
Trông theo truông Hống[3] đò Cài[4] thấy đâu.
Khi lên đổ rối cho nhau,
Khi về trút một gánh sầu về ngay.
Xua buồn từ nấy đến nay,
Nào ai mó đến xa[5] quay xin thề.
Ngại ngùng đường cưởi[6] đi về
Chân ngừng bàn đạp[7] tay e soi chuyền[8].
Vảnh tai nghe tiếng ác[9] truyền,
Đượng[10] sầu cuộn trúc[11], tấm phiền đổ hoa.
Chẹ[12] chuyền dằng[13] lại tháo ra,
Gần nhau cách quạng[14] vành xa mấy hồi.
Liều bằng khổ[15] một go[16] đôi.
Liều như bông đã bắn[17] rồi bong bong.
Bài thơ này tác giả mượn lời người con gái ở phường vải (tức làng Trường Lưu, có nghề làm vải) gửi cho Nguyễn Du. Nguyễn Du cũng có bài Thác lời trai phường nón (tức làng Tiên Điền, có nghề làm nón) đáp lại bài này. Tuy nhiên, thời gian và hoàn cảnh sáng tác của hai bài này và bài Văn tế Trường Lưu nhị nữ hiện còn nhiều tranh luận.

Theo tài liệu sưu tầm thì tác giả bài thơ này là của cụ nghè Nguyễn Huy Quýnh, nhưng cụ Hoàng Xuân Hãn cho rằng không phải vì Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785) hơn Nguyễn Du (1765-1820) tới 31 tuổi. Nguyễn Huy Quýnh mất khi Nguyễn Du mới 20 tuổi khi đang tập ấm chức quan võ ở Thái Nguyên. Cho nên bài này có thể là văn của Nguyễn Huy Hào (hơn Nguyễn Du 4 tuổi) con cụ Quýnh hoặc của Nguyễn Huy Phó (cùng tuổi với Nguyễn Du) là anh Nguyễn Huy Hổ. Hai người này gần tuổi Nguyễn Du, cũng đều là người hay chữ, đậu tứ trường (cử nhân).

[1] Lúc rạng sáng.
[2] Tức Nguyễn Du, được phong tước Du Đức Hầu, giữ các chức Đông các Đại học sĩ, Hữu tham tri bộ Lễ.
[3] Vùng rừng bằng dưới chân núi Hồng Lĩnh.
[4] Truông Hống, đò Cài là những địa danh nằm trên đường từ Tiên Điền đến Trường Lưu.
[5] Là cái xa kéo sợi để cuộn sợi vào suốt chỉ tiếng địa phương gọi là cái sót. Xa gồm giữa có một thanh gỗ dài khoảng 0,8m, một đầu có vành xa gọi là dằng gắn với tay quay, một đầu gắn cái trạ để cắm suốt chỉ. Dây da truyền lực quay từ dằng xa đến suốt chỉ.
[6] Cũng có nghĩa là cái khung cửi.
[7] Hai bàn đạp để mở go.
[8] Tức cái thoi trong đó có cái sót.
[9] Miếng gỗ treo trên cao để mắc dây go người ta thường làm thành hình con chim, gọi là con ác để trang trí. Khi đạp bàn đạp để mở go thì con ác dao động quanh trục quay phát ra tiếng kêu.
[10] Cuộn chỉ.
[11] Là cái sót chỉ làm bằng trúc.
[12] Là những cuộn sợi.
[13] Tức cái vành xa.
[14] Là một cái vành để lồng cuộn sợi đặt cách cái xa khoảng nửa mét về phía cái trạ. Sợi chỉ từ quạng được quấn vào cái sót gắn trên trạ. Người suốt chỉ tay phải quay dằng, tay trái cầm sợi chỉ để điều khiển việc quấn vào sót cho đều.
[15] Là một cái khung bằng tre kết lại như chiếc lược dày dùng để đè chỉ ngang cho khít. Gọi là khổ bởi nó cố định số sợi dọc và bề ngang của tấm vải.
[16] Gồm 2 lá go chia các sợi dọc thành 2 lớp để luồn soi (thoi). Hai lá go có dây nối với 2 đầu con ác và 2 bàn đạp.
[17] Tức là bật bông cho tơi trước khi kéo thành chỉ. Tiếng dịa phương gọi là bắn bông.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Huy Quýnh » Thác lời gái phường vải