21/04/2024 05:47Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Trường hận ca
長恨歌

Tác giả: Bạch Cư Dị - 白居易

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Trung Đường
Đăng bởi Vanachi vào 23/05/2005 20:13

 

Nguyên tác

漢皇重色思傾國,
御宇多年求不得。
楊家有女初長成,
養在深閨人未識。
天生麗質難自棄,
一朝選在君王側。
回眸一笑百媚生,
六宮粉黛無顏色。
春寒賜浴華清池,
溫泉水滑洗凝脂。
侍兒扶起嬌無力,
始是新承恩澤時。
雲鬢花顏金步搖,
芙蓉帳暖度春宵。
春宵苦短日高起,
從此君王不早朝。
承歡侍宴無閑暇,
春從春遊夜專夜。
後宮佳麗三千人,
三千寵愛在一身。
金屋妝成嬌侍夜,
玉樓宴罷醉和春。
姊妹弟兄皆列土,
可憐光彩生門戶。
遂令天下父母心,
不重生男重生女。
驪宮高處入青雲,
仙樂風飄處處聞。
緩歌慢舞凝絲竹,
盡日君王看不足。
漁陽鼙鼓動地來,
驚破霓裳羽衣曲。
九重城闕煙塵生,
千乘萬騎西南行。
翠華搖搖行復止,
西出都門百餘里。
六軍不發無奈何,
宛轉蛾眉馬前死。
花鈿委地無人收,
翠翹金雀玉搔頭。
君王掩面救不得,
回看血淚相和流。
黃埃散漫風蕭索,
雲棧縈紆登劍閣。
峨嵋山下少人行,
旌旗無光日色薄。
蜀江水碧蜀山青,
聖主朝朝暮暮情。
行宮見月傷心色,
夜雨聞鈴腸斷聲。
天旋地轉迴龍馭,
到此躊躇不能去。
馬嵬坡下泥土中,
不見玉顏空死處。
君臣相顧盡霑衣,
東望都門信馬歸。
歸來池苑皆依舊,
太液芙蓉未央柳。
芙蓉如面柳如眉,
對此如何不淚垂。
春風桃李花開日,
秋雨梧桐葉落時。
西宮南內多秋草,
落葉滿階紅不掃。
梨園子弟白髮新,
椒房阿監青娥老。
夕殿螢飛思悄然,
孤燈挑盡未成眠。
遲遲鐘鼓初長夜,
耿耿星河欲曙天。
鴛鴦瓦冷霜華重,
翡翠衾寒誰與共。
悠悠生死別經年,
魂魄不曾來入夢。
臨邛道士鴻都客,
能以精誠致魂魄。
為感君王輾轉思,
遂教方士殷勤覓。
排空馭氣奔如電,
升天入地求之遍。
上窮碧落下黃泉,
兩處茫茫皆不見。
忽聞海上有仙山,
山在虛無縹緲間。
樓閣玲瓏五雲起,
其中綽約多仙子。
中有一人字太真,
雪膚花貌參差是。
金闕西廂叩玉扃,
轉教小玉報雙成。
聞道漢家天子使,
九華帳裡夢魂驚。
攬衣推枕起徘徊,
珠箔銀屏迤邐開。
雲鬢半偏新睡覺,
花冠不整下堂來。
風吹仙袂飄飄舉,
猶似霓裳羽衣舞。
玉容寂寞淚闌干,
梨花一枝春帶雨。
含情凝睇謝君王,
一別音容兩渺茫。
昭陽殿裡恩愛絕,
蓬萊宮中日月長。
回頭下望人寰處,
不見長安見塵霧。
唯將舊物表深情,
鈿合金釵寄將去。
釵留一股合一扇,
釵擘黃金合分鈿。
但教心似金鈿堅,
天上人間會相見。
臨別殷勤重寄詞,
詞中有誓兩心知。
七月七日長生殿,
夜半無人私語時。
在天願作比翼鳥,
在地願為連理枝。
天長地久有時盡,
此恨綿綿無絕期。

Phiên âm

Hán hoàng[1] trọng sắc tư khuynh quốc[2],
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc.
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành,
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức.
Thiên sinh lệ chất nan tự khí,
Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc[3].
Hồi mâu nhất tiếu bách mị sinh,
Lục cung[4] phấn đại vô nhan sắc[5].
Xuân hàn tứ dục Hoa Thanh[6] trì,
Ôn tuyền thuỷ hoạt tẩy ngưng chi[7].
Thị nhi phù khởi kiều vô lực,
Thuỷ thị tân thừa ân trạch thì.
Vân mấn hoa nhan kim bộ dao[8],
Phù dung trướng[9] noãn độ xuân tiêu.
Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi,
Tòng thử quân vương bất tảo triều.
Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ,
Xuân tòng xuân du dạ chuyên dạ.
Hậu cung giai lệ tam thiên nhân,
Tam thiên sủng ái tại nhất thân.
Kim ốc[10] trang thành kiều thị dạ,
Ngọc lâu yến bãi tuý hoà xuân.
Tỷ muội đệ huynh giai liệt thổ[11],
Khả liên quang thái sinh môn hộ.
Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm,
Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ.
Ly cung[12] cao xứ nhập thanh vân,
Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn.
Hoãn ca mạn vũ ngưng ty trúc,
Tận nhật quân vương khan bất túc.
Ngư Dương[13] bề cổ động địa lai,
Kinh phá “Nghê thường vũ y[14]” khúc.
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh,
Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành.
Thuý hoa dao dao hành phục chỉ,
Tây xuất đô môn bách dư lý.
Lục quân[15] bất phát vô nại hà,
Uyển chuyển nga mi mã tiền tử.
Hoa điền uỷ địa vô nhân thu,
Thuý kiều, kim tước, ngọc tao đầu.
Quân vương yểm diện cứu bất đắc,
Hồi khan huyết lệ tương hoà lưu.
Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác,
Vân sạn oanh vu đăng Kiếm Các[16].
Nga My[17] sơn hạ thiểu nhân hành,
Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc.
Thục[18] giang thuỷ bích, Thục sơn thanh,
Thánh chúa triêu triêu mộ mộ tình.
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc,
Dạ vũ văn linh[19] trường đoạn thanh.
Thiên tuyền địa chuyển[20] hồi long ngự,
Đáo thử trù trừ bất năng khứ.
Mã Ngôi[21] pha hạ nê thổ trung,
Bất kiến ngọc nhan không tử xứ.
Quân thần tương cố tận triêm y,
Đông vọng đô môn tín mã quy.
Quy lai trì uyển giai y cựu,
Thái Dịch[22] phù dung, Vị Ương[23] liễu;
Phù dung như diện liễu như mi,
Đối thử như hà bất lệ thuỳ.
Xuân phong đào lý hoa khai nhật,
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì.
Tây Cung, Nam Nội[24] đa thu thảo,
Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo.
Lê Viên[25] tử đệ bạch phát tân,
Tiêu phòng[26] a giám thanh nga lão.
Tịch điện huỳnh phi tứ tiễu nhiên,
Cô đăng khiêu tận vị thành miên.
Trì trì chung cổ sơ trường dạ,
Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên.
Uyên ương ngoã[27] lãnh sương hoa trọng,
Phỉ thuý khâm hàn thuỳ dữ cộng.
Du du sinh tử biệt kinh niên,
Hồn phách bất tằng lai nhập mộng.
Lâm Cùng[28] đạo sĩ Hồng Đô[29] khách,
Năng dĩ tinh thành trí hồn phách.
Vị cảm quân vương triển chuyển tư,
Toại giao phương sĩ ân cần mịch.
Bài không ngự khí bôn như điện,
Thăng thiên nhập địa cầu chi biến.
Thượng cùng bích lạc, hạ hoàng tuyền,
Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến.
Hốt văn hải thượng hữu tiên sơn,
Sơn tại hư vô phiếu diểu gian.
Lâu các linh lung ngũ vân khởi,
Kỳ trung xước ước đa tiên tử.
Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân[30],
Tuyết phu hoa mạo sâm si thị.
Kim khuyết tây sương khấu ngọc quynh,
Chuyển giao Tiểu Ngọc[31], báo Song Thành[32].
Văn đạo Hán gia thiên tử sứ,
Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh.
Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi,
Châu bạc ngân bình di lệ khai.
Vân mấn bán thiên tân thuỵ giác,
Hoa quan bất chỉnh há đường lai.
Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử,
Do tự “Nghê thường vũ y” vũ.
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can,
Lê hoa nhất chi xuân đới vũ.
Hàm tình ngưng đệ tạ quân vương,
Nhất biệt âm dung lưỡng diểu mang!
Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt,
Bồng Lai cung trung nhật nguyệt trường.
Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ,
Bất kiến Trường An kiến trần vụ.
Duy tương cựu vật biểu thâm tình,
Điến hạp kim thoa ký tương khứ.
Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến,
Thoa phách hoàng kim hạp phân điến.
Đãn giao tâm tự kim điến kiên,
Thiên thượng nhân gian hội tương kiến.
Lâm biệt ân cần trùng ký từ,
Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri:
Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh[33] điện,
Dạ bán vô nhân tư ngữ thì.
“Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu,
Tại địa nguyện vi liên lý chi.”
Thiên trường địa cửu hữu thì tận,
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ.

Dịch nghĩa

Vua Hán trọng sắc đẹp, muốn có một người nghiêng nước nghiêng thành,
Ở ngôi bao năm tìm kiếm không được.
Họ Dương có cô gái mới lớn lên,
Nuôi dạy ở nơi buồng the, người ngoài chưa ai biết.
Vẻ đẹp trời sinh khó tự bỏ hoài,
Một sớm được tuyển vào bên vua.
Mỗi lần ngoành mặt, nhoẻn cười lộ ra trăm vẻ đáng yêu,
Sáu cung son phấn không còn ai đáng gọi là có nhan sắc nữa.
Tiết xuân lạnh, được tắm ở hồ Hoa Thanh,
Suối ấm, nước trơn dội trên da trắng mịn như mỡ đông.
Thị tỳ nâng dậy, yếu mềm như không còn sức nữa,
Ấy là lần đầu tiên được thấm nhuần ơn vua.
Tóc mây, mặt hoa, những chuỗi ngọc trên đầu rung rinh,
Trướng phù dung ấm trải qua đêm xuân.
Bực nỗi đêm xuân ngắn ngủi, mặt trời lên cao rồi mới dậy,
Từ đấy vua không ra coi chầu sớm nữa.
Khi mua vui, khi hầu tiệc, chẳng lúc nào ngơi,
Mùa xuân theo đi chơi xuân, đêm nào cũng là đêm riêng của nàng với vua.
Gái đẹp nơi hậu cung hàng ba nghìn người,
Tình yêu thương đối với ba ngìn người ấy nay trút cả vào mình nàng,
Nơi nhà vàng, trang hoàng xong, là chỗ của những đêm hầu hạ nũng nịu.
Tiệc lầu ngọc, tan rồi là buổi say sưa với cả chiều xuân êm ái!
Chị em, anh em đều đước cắt đất phong quan,
Thương thay! Một mình làm vẻ vang cho cả nhà cả họ!!
Khiến cho lòng những người làm cha mẹ trong thiên hạ,
Quý sinh con gái hơn sinh trai.
Cung điện trên núi Ly cao vút mây xanh,
Khúc nhạc tiên theo gió đưa đi, nơi nơi nghe tiếng.
Giọng ca trầm trầm, điệu múa khoan hoà với tiếng đàn tiếng sáo,
Suốt ngày vua xem không xuể.
Tiếng trống trận Ngư Dương bỗng dậy đất kéo đến,
Làm cho điệu múa “Nghê thường vũ y” tan tác kinh hoàng.
Chín lần thành khuyết, khói bụi mịt mù,
Ngìn cỗ xe, muôn cỗ ngựa chạy về tây nam.
Tàn thắm, cờ hoa ngả nghiêng dùng dằng,
Đi ra phía tây, khỏi cổng thành được hơn trăm dặm.
Bỗng sáu quân không chịu tiến, tình thế khó xong,
Gái mày ngày phải quằn quại chết trước đầu ngựa.
Bông hoa vàng, cành thuý kiều, hình kim tước và trâm ngọc cài đầu,
Rơi rắc trên mặt đất chẳng còn ai nhặt.
Cứu không nổi, vua đành bưng mặt,
Khi nhìn lại, máu pha nước mắt đã chảy ròng ròng.
Bụi vàng tản mát bay, gió hiu hắt thổi,
Những đợt thang mây vẫn uốn khúc cheo leo trên núi Kiếm Các.
Dưới chân núi Nga My thưa thớt người đi,
Bóng cờ ủ rũ, ánh mặt trời bạc phếch.
Sông đất Thục biếc, núi đất Thục xanh,
Tình vua nhớ nhung hết sớm lại chiều.
Ánh trăng nơi hành cung, trông những đau lòng,
Tiếng chuông lúc đêm mưa, nghe càng đứt ruột.
Trời xoay đất chuyển, xe rồng lại trở về,
Tới đó, dùng dằng không nỡ dời chân.
Trong đống đất bùn, trên gò Mã Ngôi,
Mặt ngọc nào thấy đâu, còn trơ chỗ thác uổng!
Vua tôi nhìn nhau, ai nấy lệ rơi thấm áo,
Hướng về phương đông, phía cổng thành mặc cho vó ngựa quen đường lững thững bước về.
Tới nơi, ao vườn vẫn nguyên như cũ,
Sen hồ Thái Dịch, liễu cung Vị Ương.
Thấy hoa sen, nhớ đến mặt nàng, thấy lá liễu, nhớ lông mày nàng,
Trước cảnh ấy, cầm sao được giọt lệ!
Những buổi gió xuân, đào lý nở hoa,
Những lúc mưa thu, ngô đồng rụng lá.
Đền Tây Cung, điện Nam Nội cỏ thu mọc đầy,
Lá rụng tơi bời, đỏ thềm không ai quét.
Bọn con em nơi Lê Viên tóc đà nhuốm bạc,
Lũ thái giám, thị tỳ chốn tiêu phòng cũng đã già rồi.
Trước điện, buổi tối, cái đóm bay, cảnh tình lặng ngắt,
Ngọn đèn vò võ khêu đã hết bấc, giấc mộng vẫn chưa thành.
Tiếng trống cầm canh chầm chậm của đêm mới bắt đầu dài,
Ánh sao lấp lánh trên sông Ngân lúc trời sắp sáng.
Lớp sương nặng phủ trên mái ngói uyên ương giá ngắt,
Tấm chăn cánh trả, lạnh như tiền, chung đắp cùng ai?
Kẻ khuất người còn xa nhau đã hơn năm trời đằng đẵng,
Hồn phách chưa từng gặp nhau trong giấc chiêm bao.
Một đạo sĩ ở Lâm Cùng, đến chơi Hồng Đô,
Có phép thuật tinh thành gọi được hồn phách người chết.
Vì cảm nỗi lòng vua nhớ nhung trằn trọc,
Mới sai phương sĩ (đạo sĩ) hết lòng tìm kiếm:
Xé tầng mây, cưỡi làn gió, đi nhanh như chớp,
Lên trời, xuống đất, tìm khắp mọi nơi.
Trên từ mây biếc, dưới đến suối vàng,
Cả hai nơi đều mênh mang không thấy.
Chợt nghe ở ngoài bể cổ có ngọn núi tiên,
Núi rập rờn trong khoảng hư vô huyền ảo.
Lầu gác lộng lẫy, năm thức mây lồng,
Có bao nàng tiên thướt tha yểu điệu.
Trong đó, một nàng tên gọi Thái Chân,
Da tuyết, mặt hoa na ná giống.
Gõ cửa ngọc mái tây nơi kim khuyết,
Nhờ Tiểu Ngọc, truyền bảo đến Song Thành.
Nghe có sứ vua Hán tới,
Trong màn cửa hoa giật mình tỉnh giấc.
Khép áo, đẩy gối, bồi hồi trở dậy,
Cánh rèm châu, bức mành bạc từ từ mở ra.
Bối tóc mây hơi lệch, vẻ còn ngái ngủ,
Mũ hoa đội chưa ngay, vội bước xuống thềm.
Gió thổi, vạt áo nhẹ nhẹ bay,
Hệt như lúc đang múa khúc “Nghê thường vũ y”.
Vẻ ngọc âm thầm, vắn dài hàng lệ,
Một cành hoa lệ đẫm hạt mưa xuân.
Đăm đăm khoé mắt, nghẹn ngào “Đa tạ lòng quân vương,
Một lần từ biệt đôi ngả cách mặt khuất lời.
Tình ân ái ở Chiêu Dương thế là đoạn tuyệt,
Ngày tháng trong cung Bồng Lai dài đằng đẵng.
Ngoảnh mặt nhìn xuống cõi đời,
Không thấy Trường An, chỉ thấy bụi trần mù mịt.
Nay xin mượn vật cũ để tỏ chút tình thâm,
Chiếc hộp khảm, cành kim thoa, gửi mang về giúp.
Thoa để lại một nhành, hộp để lại một mảnh,
Thoa bẻ nhánh vàng, hộp chia mảnh khảm.
Chỉ nguyệt tấm lòng bền như vàng như khảm,
Kẻ trên đời, người trần thế sẽ còn gặp nhau!”
Lúc sắp từ biệt còn ân cần nhắc gửi mấy lời,
Trong đó có lời thề riêng, chỉ hai tấm lòng được biết.
Đó là đêm mồng bảy tháng bày, tại điện Trường Sinh,
Nửa đêm, người vắng, thề riêng với nhau:
“Ở trên trời nguyện làm chim liền cánh,
Ở dưới đất nguyện làm cây liền cành.”
Trời đất dài lâu cũng có lúc hết,
Hận này đằng dặc, không thủa nào cùng!

Bản dịch của Tản Đà

Đức vua Hán mến người khuynh quốc
Trải bao năm tìm chuốc công tai
Nhà Dương có gái mới choai
Buồn xuân khoá kín chưa ai bạn cùng
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc
Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên
Một cười trăm vẻ thiên nhiên
Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son
Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm
Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa
Vua yêu bận ấy mới là
Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay
Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái
Màn phù dung êm ái đêm xuân
Đêm xuân vắn vủn có ngần
Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm
Ba ngìn xinh đẹp chị em
Ba ngìn yêu quí chất nêm một mình
Nhà vàng đúc, đêm thanh ấm áp
Lầu ngọc cao, say ắp mầu xuân
Anh em sướng đủ mọi phần
Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai
Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết
Làn gió đưa cao tít Ly cung
Suốt ngày múa hát thung dung
Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương
Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến
Khúc Nghê Thường tan biến như không
Chín lần thành khuyết bị tung
Nghìn xe, muôn ngựa qua vùng Tây Nam
Đi lại đứng hơn trăm dậm đất
Cờ thuý hoa bóng phất lung lay
Sáu quân rúng rắng làm rầy
Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi!
Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất
Ôi! Thuý Kiều ngọc nát vàng phai
Quân vương bưng mặt cho rồi
Quay đầu trông lại, máu trôi lệ dàn
Gió tung bụi mê man tản mác
Đường thang mây Kiếm Các lần đi
Vắng tanh, dưới núi Nga My
Mặt trời nhạt thếch, tinh kỳ buồn tênh
Đát Ba Thục non xanh nước biếc
Lòng vua cha[34] thương tiếc hôm mai
Thấy trăng luống những đau người
Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông
Phút trời đất quay cuồng vận số
Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa
Đất bùn chỗ chết còn trơ
Thấy đâu mặt ngọc! Bây giờ Mã Ngôi!
Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ
Gióng dây cương, ngựa tế về đông
Cảnh xua dương liễu, phù dung
Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười
Phù dung đó, mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như
Càng trông hoa liễu năm xưa
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm
Xuân đào lý gió đêm huê nở
Thu khi mưa rụng lá ngô đồng
Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung
Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi?
Vườn lê cũ những ai con hát?
Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng
Những ai coi giữ tiêu phòng?
Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn
Trước cung điện nhìn sân đêm tối
Đom đóm bay gợi mối u sầu
Ngọn đền khêu đã cạn dầu
Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong!
Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống
Năm canh dài chẳng giống đêm xưa
Sông Ngân lấp lánh sao thưa
Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời?
Tren mái ngói sương rơi ướt lạnh
Trong chăn nằm bên cạnh nào ai?
Cách năm sống thác đôi nơi
Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng?
Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã
Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông
Xót vì vua chúa nhớ nhung
Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay
Cưỡi luồng gió như bay như biến
Tren trời xanh, dưới đến đất đen
Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền
Dưới tren tìm khắp mơ huyền thấy chi!
Sực nghe nói tìm đi mé bể,
Có non tiên ngoài phía hư không
Rỡ ràng cugn điện linh lung
Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao!
Trong tha thướt biết bao tiên tử
Một nàng tiên tên chữ Ngọc Chân
Mặt hoa da tuyết trắng ngần
Dáng như người ấy có phần phải chăng?
Mái tây gõ cửa vàng then ngọc
Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành
Nghe tin sứ giả Hán Đình
Cửa hoa trong trướng giật mình giấc mơ
Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực,
Mở rèm châu, bình bạc lần ra
Bâng khoâng nửa mái mây tà
Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu
Phớt tay áo bay màu ngọn gió
Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa
Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa
Cành lê hoa trĩu hạt mưa xuân đầm
Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã
Đội ơn lòng, xin tạ quân vương
Từ ngày cách trở đôi phương
Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong
Nơi đế điện dứt vòng ân ái
Chốn tiên cugn thư thái hàng ngày
Cõi trần ngoảnh lại mà hay
Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!
Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú?
Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi
Thoa vàng hộp khảm phân đôi
Nửa xin để lại nửa thời đem đi
Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc
Tựa hoa vàng bền chắc không phai
Thời cho cách trở đôi nơi
Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau
Ân cần dặn mấy câu lâm biệt
Lời thề xưa lòng biết với lòng
Là đêm trùng thất ngồi chung
Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người
Xin kết nguyện chim trời liền cánh
Xin làm cây cành nhánh liền nhau
Thấm chi trời đất dài lâu
Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi...
Trường hận ca là một danh tác của Bạch Cư Dị, dùng bút pháp ước lệ tự sự, đem lịch sử cùng điển cố văn học, thông qua câu chuyện giữa vua Hán Vũ Đế (Lưu Triệt) và Lý phu nhân, nhưng thực là miêu tả câu chuyện tình yêu giữa Đường Huyền Tông (tức Đường Minh Hoàng) và Dương Quý Phi. Dương Quý Phi tên thật là Dương Ngọc Hoàn, con gái của ty hộ Thục Châu Dương Huyền Diệm, ở Hoằng Nông (nay là huyện Linh Bảo, tỉnh Hà Nam; có thuyết nói là Bồ Châu, nay là huyện Bồ, tỉnh Sơn Tây). Khi còn nhỏ nàng được nuôi dưỡng trong nhà của người chú là Dương Huyền Bân, năm Khai Nguyên thứ 13 (735) được phong làm vợ lẽ Lý Mao, con trai thứ mười của Huyền Tông, Thọ Vương. Huyền Tông rất thích nàng, vào năm Khai Nguyên thứ 28 (740), đầu tiên ông sai nàng làm một nữ đạo sĩ, sống ở Thái Chân cung, và đặt cho nàng tên là Thái Chân. Năm Thiên bảo thứ 4 (745) ông chính thức phong làm Quý phi.

Bài thơ gồm 120 câu, có thể chia làm 4 đoạn:
- Đoạn 1 tới câu 32: miêu tả những buổi đầu Đường Huyền Tông ân sủng Dương Quý Phi rồi bỏ mặc triều chính, sa vào những yến tiệc thâu đêm suốt sáng từ ngày này sang ngày khác, mặc cho loạn thần và người nhà của Dương Quý Phi lộng hành, mâu thuẫn với một người cũng đầy tham vọng và dã tâm là An Lộc Sơn.
- Đoạn 2 tới câu 50: An Lộc Sơn làm phản, qua được Đồng Quan đến thẳng kinh đô Trường An. Vua tôi triều đình nhà Đường phải chạy đến đất Thục ở Tứ Xuyên. Khi đến gò Mã Ngôi, tướng Trần Huyền Lễ cùng thái tử Lý Hanh lập mưu giết Dương Quốc Trung, rồi kích động binh sĩ đòi giết Dương Quý Phi mới chịu phò vua đánh giặc. Đường Huyền Tông đành ban chết cho Dương Quý Phi rồi tới huyện Phù Phong, nhiều tháng sau mới tới đất Thục. Trong thời gian đó, Lý Hanh xưng đế, tôn Huyền Tông làm Thái thượng hoàng.
- Đoạn 3 đến câu 74: Năm Chí Đức thứ 2 (757), dưới triều Đường Túc Tông, quân Đường thu phục được Trường An, do đó sai người đến đưa Huyền Tông trở về. Trên đường, Huyền Tông từng muốn vì Dương Quý Phi mà cử hành an táng, nhưng Lý Quỹ ra sức can ngăn nên ông từ bỏ, nhưng vẫn sai người lén lút đưa di thể Quý Phi cải táng ở chỗ khác. Về lại Trường An, Huyền Tông thẳng đến Thái miếu tạ tội tổ tiên, sau từ đấy ở tại Hưng Khánh cung. Sang năm Càn Nguyên, Lý Phụ Quốc ly gián quan hệ giữa Túc Tông và Huyền Tông, lúc này đám người Huyền Lễ và Cao Lực Sĩ đều chịu biếm truất, Huyền Tông chịu cảnh bơ vơ, lại bị Túc Tông sai người đưa di cư đến Tây Nội khiến ông rất buồn bực.
- Đoạn 4 đến hết: Huyền Tông bây giờ đã là Thái thượng hoàng nhưng bị giam cầm ở Tây Nội, không còn phải lo việc triều chính nữa, tới năm Bảo Ứng thứ nhất (762) thì băng hà.


[1] Tức Hán Vũ Đế, ở đây dùng để chỉ Đường Minh Hoàng.
[2] Lý Diên Niên, một nhạc công của Hán Vũ Đế, trong một bài hát có câu “Bắc phương hữu giai nhân, Tuyệt thế nhi độc lập; Nhất cố khuynh nhân thành, Tái cố khuynh nhân quốc” tả người đẹp ngoảnh nhìn có thể khiến nghiêng nước, nghiêng thành. Vua hỏi thiên hạ lại có người đẹp như vậy sao. Lý Diên Niên đáp rằng chính là em gái của mình rồi tiến cử lên Hán Vũ Đế, được phong là Lý phu nhân, sau trở thành hoàng hậu.
[3] Vợ lẽ vua, nghĩa là làm Quý phi.
[4] Sáu cung, chỉ những nơi vợ vua ở. Chế độ nhà Chu, đại phu có sáu phòng, vương hầu có sáu cung. Sau này lục cung là nơi ở của hoàng hậu và cung phi.
[5] Không có màu, trên mặt ảm đạm không sáng (của phi tần khác), nghĩa là trong sáu loại phi tần thì Dương Quý Phi đứng thứ hai.
[6] Hồ Hoa Thanh, một hồ trên núi Ly Sơn, có suối nước ấm, trước có tên là Ôn Tuyền. Đường Minh Hoàng sai xây cung điện ở đấy làm nơi nghỉ, chơi.
[7] So sánh da như mỡ đông, tả da trắng đẹp mịn màng. Thi kinh bài Thạc nhân có câu: “Thủ như nhu di, Phu như ngưng chi” 手如柔荑,膚如凝脂 (Tay trắng và mềm như mầm cỏ non, Da trắng mịn màng như mỡ đông).
[8] Cái thoa cài tóc trên đầu còn gọi là “thủ sức”, làm bằng trâm vàng có đính kèm ngọc trai nên lấp lánh, lay động đung đưa.
[9] Màn có vẽ hoa sen. Bảo Triệu bài Hành lộ nan có câu: “Thất thái phù dung chi vũ trướng” 七彩芙蓉之羽帳 (Màn lông vũ có hoa sen sặc sỡ).
[10] Nhà vàng. Theo Vũ Đế cố sự, Hán Vũ Đế khi còn là thái tử, bà Trưởng công chúa (tức là cô của Vũ Đế) muốn gả con là A Kiều cho ông, mới hỏi: A Kiều có đẹp không? Con có muốn cưới làm vợ không? Vũ Đế đáp: “Nhược đắc A Kiều đương dĩ kim ốc trữ chi” 若得阿橋當以金屋貯之 (Nếu cưới được A Kiều thì sẽ đúc nhà vàng cho ở). Về sau khi lên ngôi vua, Vũ Đế lập A Kiều làm Hoàng hậu. Ở đây nó dùng để chỉ cung điện nơi Dương Quý Phi đang sống.
[11] Phong quan và lãnh địa. Sau khi Dương Quý Phi được Huyền Tông sủng ái, người nhà họ Dương đều được phong chức và chia đất, cha bà là Dương Huyền Diệm được truy tặng Thái uý Tề quốc công, mẹ được phong Lương quốc phu nhân, anh Dương Tiêm là Hồng lô khanh, em họ Dương Kỳ là Thị ngự sử, chị lớn lấy họ Thôi là Hàn quốc phu nhân, chị lấy họ Bùi là Quắc quốc phu nhân, chị thứ tám lấy họ Liễu là Tần quốc phu nhân, anh thứ tư Dương Quốc Trung là Hữu thừa Nguỵ quốc công.
[12] Tên một điện trong cung Vị Ương đời Hán, nơi vợ vua ở, ở trên núi Ly Nhung, có hồ và suối nước nóng. Đường Minh Hoàng sai xây cung điện để nghỉ ngơi và du ngoạn. Núi Ly Nhung ở tỉnh Thiểm Tây ngày nay.
[13] Nơi An Lộc Sơn trấn thủ, thuộc tỉnh Hà Bắc ngày nay.
[14] Một điệu múa gốc từ Ấn Độ, truyền sang Trung Quốc, Đường Minh Hoàng sửa đổi lại thành một điệu ca vũ trong hoàng cung.
[15] Phép đặt quân ngày xưa, 12500 người làm một quân, vua thiên tử có sáu quân. Chữ “lục quân” đây cũng chỉ là nói quân của thiên tử.
[16] Đường vào Ba Thục có hai núi Kiếm Sơn là đại Kiếm Sơn và tiểu Kiếm Sơn, cách nhau 30 dặm, có đường gác bắc thông để đi qua, thế rất nguy hiểm.
[17] Ở Ba Thục, tức nay về hạt huyện Nga My, tỉnh Tứ Xuyên. Hai núi đối nhau, hình như lông mày con ngài, nhân được tên gọi là Nga My.
[18] Nay là tỉnh Tứ Xuyên.
[19] Linh là cái chuông nhỏ cầm tay lắc. Theo Trịnh Xứ Hối trong Minh Hoàng tạp lục bổ di, khi Huyền Tông vào Thục, đi qua Tà Cốc, gặp phải khoảng hơn chục trận mưa. Trong mưa ở sạn đạo nghe thấy tiếng chuông từ trên núi, thấy đặc biệt hoang vắng lanh lẽo, đau buồn thương tiếc Dương Phi, phổ thơ thành Vũ lâm linh khúc gửi niềm uất hận.
[20] Ý nói tình hình chung đã được cải thiện. Tháng chín năm Chí Đức thứ 2 (757), Quách Tử Nghi thu phục lại Trường An, tháng mười hai cùng năm Huyền Tông từ Thành Đô về Trường An.
[21] Gò nơi Dương Quý Phi được Minh Hoàng ban chết.
[22] Tên của ao phía bắc của cung điện Kiến Chương nhà Hán, nay ở phía đông thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, rộng mười khoảnh, bằng một nghìn mẫu.
[23] Tên một cung điện nhà Hán, di chỉ ở phía tây bắc Tây An ngày nay. Câu này nói rằng, nhìn thấy hoa sen ở ao Thái Dịch giống như nhìn thấy khuôn mặt của Dương Quý Phi, thấy những tán lá liễu trước cung điện Vị Ương giống như nhìn thấy lông mày của Dương Quý Phi. Lý Bạch trong Thanh bình điệu có câu hoá dụng: “Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung” (Nhìn mây nhớ đến xiêm áo, thấy hoa nhớ đến dung nhan).
[24] Đền Tây Cung tức cung Thái Cực, và điện Nam Nội tức cung Hưng Khánh. Đường Minh Hoàng sau khi chạy loạn trở về truyền ngôi cho con, làm Thái thượng hoàng, đầu tiên sống ở cung Hưng Khánh, nhưng vì cung điện gần triều chính, thường xuyên tiếp xúc với quần thần, khiến Túc Tông sợ ông có tham vọng lại lên ngôi nên dời ông đến Tây Cung.
[25] Chỉ ban nhạc mà Huyền Tông đã đào tạo ở Lê Viên. Lê Viên là hai kỹ phường trong nội cung. Năm 714, Huyền Tông đã lập một cung bên cạnh cung điện Bồng Lai để luyện tập âm nhạc và vũ đạo, và tự tham gia dạy diến tập âm nhạc và khiêu vũ.
[26] Phòng trong cung điện, nơi ở của thê thiếp, phủ lên các bức tường bằng tiêu, ớt và bùn để thơm và ấm.
[27] Ngói uyên ương. Nguỵ Văn Đế nằm mơ thấy hai phiến ngói rơi xuống đất, hoá đôi uyên ương, về sau người ta gọi thứ ngói cứ ghép thành hai phiến một để lợp nhà là ngói uyên ương.
[28] Nay là huyện Cùng Lai, Lan Châu, thuộc tỉnh Tứ Xuyên.
[29] Nguyên là cửa một cung điện đời Hán ở Lạc Dương, nay dùng để chỉ nơi kinh đô.
[30] Dương Quý Phi từng được Đường Minh Hoàng cho làm đạo sĩ, tên là Thái Chân.
[31] Bạch Cư Dị trong Nghê thường vũ y vũ ca 霓裳羽衣舞歌 đã tự chú Tiểu Ngọc là con gái của Ngô vương Phù Sai.
[32] Tức Đổng Song Thành, người hầu gái của Tây Vương Mẫu trong truyền thuyết. Tiểu Ngọc và Song Thành cùng là thị nữ của Dương Quý Phi. Đại ý hai câu này là Dương Quý Phi sống ở sâu trong cõi tiên, nên sau khi phương sĩ gõ cửa, người mở cửa nhờ Tiểu Ngọc đến nói với Song Thành sau đó Song Thành nói với bà.
[33] Một điện trong cung Hoa Thanh.
[34] Được dịch từ cụm từ “thánh chúa” trong nguyên tác. Theo Quách Tấn, Tản Đà đã giải thích rằng Dương Quý Phi vốn được cưới về làm vợ hoàng tử, nhưng Đường Minh Hoàng vì mê nhan sắc của nàng nên đã đưa nàng vào cung làm quý phi. Hành động đó rõ ràng là loạn luân, thế mà Bạch Cư Dị lại gọi nhà vua là “thánh chúa”, thì hai chữ đó có hàm ý mỉa mai. Bởi vậy, ông dùng hai chữ “vua cha” để làm sáng tỏ dụng ý trong nguyên văn. (“Kỷ niệm về Tản Đà”, Tạp chí Văn, số về Tản Đà, năm 1971)

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Bạch Cư Dị » Trường hận ca