05/10/2024 02:17Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 20/04/2015 09:38
Nguyên tác
久遊巴子國,
屢入武侯祠。
竹日斜虚寢,
溪風满薄帷。
君臣當共濟,
賢聖亦同時。
翊戴歸先主,
并吞更出師。
虫蛇穿畫壁,
巫覡醉蛛絲。
欻憶吟梁父,
躬耕也未遲。
Phiên âm
Cửu du Ba Tử[1] quốc,
Lũ nhập Vũ Hầu từ.
Trúc nhật tà hư tẩm.
Khê phong mãn bạc duy.
Quân thần đương cộng tế,
Hiền thánh diệc đồng thì.
Dực đới quy Tiên Chủ[2],
Tính thôn cánh xuất sư.
Trùng xà xuyên hoạ bích,
Vu hích tuý thù ti.
Hốt ức ngâm “Lương phủ”,
Cung canh dã vị trì.Dịch nghĩa
Ở chơi lâu vùng Ba Tử,
Nhiều lần vào nơi thờ Vũ Hầu.
Mặt trời chiếu xiên qua khóm trúc thấy rõ nơi phía trong trống,
Gió từ suối thổi tung bay màn đã bạc mầu.
Vua và bề tôi đều cùng được thờ cúng,
Người hiền với bậc thánh sống cùng thời với nhau.
Vì kính trọng nên về với tiên chúa,
Muốn thống nhất nên mang quân ra đi.
Bức tường vẽ mối với giun đục quanh co,
Ông đồng bà cốt say sưa dưới màng nhện.
Bỗng nhớ tới bài ngâm “Lương phủ”,
Cái lòng mong tự mình cày cấy kia nghĩ cũng chưa muộn.Bản dịch của Phạm Doanh
Ở lâu vùng Ba Tử,
Đền Vũ Hầu thăm hoài.
Ánh trúc xiên phòng trống,
Gió suối tung màn tơi.
Vua, tôi cùng hường cúng,
Hiến, thánh sống cùng thời.
Giúp chúa vì kính trọng,
Ra quân yên khắp nơi.
Tơ nhện đồng cốt xỉn,
Tường hoa giun mối xoi.
Cày ruộng đâu đã trễ,
Khúc "Lương phủ" nhớ lời.
(Năm 766)
[1] Tên nước bị nhà Tần thôn tính, sáp nhập làm Ba quận, đời Đường gọi là Quỳnh Châu, nay là Tam Thai, Tứ Xuyên.
[2] Lưu Bị.