03/10/2024 18:56Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi hongha83 vào 13/02/2012 11:29
Nguyên tác
送客蒼溪縣,
山寒雨不開。
直愁騎馬滑,
故作泛舟回。
青惜峰巒過,
黃知橘柚來。
江流大自在,
坐穩興悠哉。
Phiên âm
Tống khách Thương Khê huyện,
Sơn hàn vũ bất khai.
Trực sầu kỵ mã hoạt,
Cố tác phiếm chu hồi.
Thanh tích phong loan quá,
Hoàng tri quất dữu lai.
Giang lưu đại tự tại,
Toạ ổn hứng du tai.Dịch nghĩa
Tiễn khách đi huyện Thương Khê,
Núi lạnh nhưng không mưa.
Đi ngựa sợ đường trơn trượt,
Nên dùng thuyền đi.
Tiếc màu xanh của núi non đã lướt qua,
Thấy màu vàng, biết đã tới vùng trồng cam quít.
Đi thuyền thật thong dong,
Ngồi yên ổn nên hứng thơ man mác.Bản dịch của Nhượng Tống
Đưa khách huyện Thương Khê,
Núi lạnh, mưa mờ mịt.
Cưỡi ngựa sợ khi trơn,
Về thuyền cho đỡ mệt.
Xanh qua tiếc núi rừng,
Vàng tới kìa cam quýt.
Hớn hở được yên thân,
Tự do sông chảy xiết.
Bài này làm năm 763 khi thiếu doãn Thành Đô là Từ Tri Đạo nổi lên làm loạn, Đỗ Phủ một mình bỏ nhà cỏ lánh nạn qua Tử Châu, rồi Lãng Trung. Nhân tiễn khách đi huyện Thương Khê gần đó, ông theo thuyền và viết bài này.