26/09/2023 17:05Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Phạm Hy Hưng vào 28/12/2022 00:06

Phiên âm
Xoa thủ tân đài phú biệt ngâm,
Trừng chiêm cố đạo chấn tên lâm.
Trùng quan thảo thụ tam thu sắc,
Vạn lý quân thiều cách tuế tâm.
Nhật nguyệt kỷ hà thiên khách cửu,
Giang sơn như tạc khước tình thâm.
Phùng nhân lưỡng vọng hàn ôn ngữ,
Xứ xứ bình an dật thoại âm.Dịch nghĩa
Nơi Tân đài khuỳnh tay ngâm bài thơ giã biệt,
Nhìn lại con đường quen thuộc, ra roi phất ngựa phi nhanh.
Nơi trùng quan, cây cỏ đượm vẻ cuối thu,
Qua ngàn dặm, lòng vẫn ngâm nga khúc quân thiều năm trước.
Liệu sống được bao nhiêu ngày tháng mà xa nhà lâu thế,
Giang sơn vẫn như cũ mà tình thấy nặng thêm.
Gặp ai cũng nhìn nhau trò chuyện hàn ôn,
Khắp chốn bình an, tràn đầy tiếng chào hỏi.Bản dịch của Trần Lê Văn
Khuỳnh tay, ngâm biệt chốn Tân Đình,
Nhìn lại đường quen, quất ngựa nhanh.
Cây cỏ thu tàn, trông đạm bạc,
Quân thiều năm trước, nhớ âm thanh.
Tháng ngày có mấy, mà xa nước,
Sông núi như xưa, vẫn nặng tình.
Gặp lại, nhìn nhau, trò chuyện mãi,
Tiếng chào vang khắp cảnh yên bình.
Bài thơ làm khi tác giả qua cửa ải Nam Quan phía bắc nước ta.
Nguồn: Phạm Hy Lượng - cuộc đời và tác phẩm, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, 1997