25/04/2024 05:08Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Khốc Vi đại phu Chi Tấn
哭韋大夫之晉

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 06/06/2015 00:03

 

Nguyên tác

悽愴郇瑕邑,
差池弱冠年。
丈人叨禮數,
文律早周旋。
臺閣黃圖裏,
簪裾紫蓋邊。
尊榮真不忝,
端雅獨翛然。
貢喜音容間,
馮招病疾纏。
南過駭倉卒,
北思悄聯綿。
鵩鳥長沙諱,
犀牛蜀郡憐。
素車猶慟哭,
寶劍欲高懸。
漢道中興盛,
韋經亞相傳。
沖融標世業,
磊落映時賢。
城府深朱夏,
江湖眇霽天。
綺樓高樹頂,
飛旐泛堂前。
帟幕旋風燕,
笳簫急暮蟬。
興殘虛白室,
跡斷孝廉船。
童孺交遊盡,
喧卑俗事牽。
老來多涕淚,
情在強詩篇。
誰寄方隅理,
朝難將帥權。
春秋褒貶例,
名器重雙全。

Phiên âm

Thê sảng Tuân Hà[1] ấp,
Si trì nhược quan niên.
Trượng nhân thao lễ số,
Văn luật tảo chu triền.
Đài các hoàng đồ lý,
Trâm cứ tử cái biên.
Tôn vinh chân bất thiểm,
Đoan nhã độc tiêu nhiên.
Cống[2] hỉ âm dung gián,
Phùng[3] chiêu bệnh tật triền.
Nam quá hãi thảng thốt,
Bắc tư tiễu liên miên.
Phục điểu Trường Sa huý,
Tê ngưu Thục quận liên.
Tố xa do đỗng khốc,
Bảo kiếm dục cao huyền[4].
Hán đạo trung hưng thịnh,
Vi kinh[5] á tướng truyền.
Xung dung phiêu thế nghiệp,
Lỗi lạc ánh thì hiền.
Thành phủ thâm chu hạ,
Giang hồ miễu tễ thiên.
Ỷ lâu cao thụ đỉnh,
Phi triệu phiếm đình tiền.
Diệc mạc toàn phong yến,
Già tiêu cấp mộ thiền.
Hứng tàn hư bạch ốc,
Tích đoạn hiếu liêm thuyền[6].
Đồng nhụ giao du tận,
Huyên ti tục sự khiên.
Lão lai đa thế lệ,
Tình tại cưỡng thi biên.
Thuỳ ký phương ngu lý,
Triều nạn tướng suý quyền.
Xuân thu bao biếm lệ,
Danh khí trọng song tuyền.

Dịch nghĩa

Thê thảm thay là vùng Tuân, Hà,
Vất vả vào những năm trưởng thành.
Ông là người tỏ ra trọng lễ nghi,
Thể thức làm văn đã sớm nắm vững.
Nơi ông ở là lầu gác trong khu vực hoàng gia,
Ông mặc áo, cài trâm luôn bên lọng tía.
Tôn vinh thật ra cũng không phải là khiêm nhượng đâu,
Vẻ đoan nhã một mình ông nổi bật.
Ông Cống Vũ luôn vui mừng kia nay đành xa cách,
Tôi đây già như Phùng Đường được gọi ra làm quan thì bị bệnh dài dài.
Đi qua miền nam thì hốt hoảng kinh hãi,
Nghĩ về phương bắc thì đau khổ triền miên.
Tránh né chim cú vùng Trường Sa,
Con trâu nước nơi Thục quận thì liền bên cạnh.
Xe tang trắng còn vang tiếng khóc nức,
Muốn mang thanh gươm quý ra mà treo cao.
Cái vận may của nhà Hán được khôi phục ngày một vững,
Các con cháu ông Vi truyền nhau những chức vụ cao.
Vẻ vang tài giỏi đương thời, sự nghiệp lớn lao,
Như ánh sáng soi mọi người.
Nơi thành phủ đang giữa mùa hè đỏ,
Chốn sông hồ trời nóng gắt.
Lầu hoa cao trên ngọn cây,
Trước sân phất phới phướn bay bập bùng.
Màn che cửa như chim én bay trong cơn lốc,
Tiếng tiêu, tiếng ốc như ve ra rả lúc ban chiều.
Hứng thú tiêu tan nơi căn nhà nghèo trống vắng,
Không còn vết tích của thuyền ông cử.
Những bạn thời để chỏm nay hết cả rồi,
Những chuyện vặt vãnh cứ dày vò mình.
Già đến dễ rơi nước mắt,
Lòng cố gửi vào bài thơ.
Có ai mà gửi cái lý lẽ ở nơi góc kẹt này,
Triều đình gặp khó khăn vì trao quyền cho tướng suý.
Kinh Xuân Thu đã kê ra những khen, chê,
Danh với khí hai cái đó phải tương xứng với nhau.

Bản dịch của Phạm Doanh

Vùng Tuân, Hà sao mà thê thảm,
Thời thiếu niên lận đận quá rồi.
Ông người lễ tiết thường noi.
Luật văn sáng tác rạch ròi sớm thông.
Lầu gác cao trong vùng vua chúa,
Áo, trâm cùng lọng tía ngay bên.
Tôn vinh thật cũng chẳng hèn,
Riêng vẻ đoan nhã thản nhiên tự mình.
Ông Cống vui, tiếng hình cách trở,
Cụ Phùng mời, bệnh cứ rềnh rang.
Qua nam hấp tấp vội vàng,
Nghĩ bắc lo lắng lại càng dài ra.
Chim cú nơi Trường Sa tránh lẩn,
Tê ngưu thì Thục quận ngay bên.
Xe trắng tiếng khóc vang rền
Gươm quý muốn đươc treo liền trên cao.
Vận Hán đang đi vào lúc vượng,
Nhà họ Vi khanh tướng truyền đời.
Vẻ vang tài giỏi đương thời,
Sự nghiệp nổi bật mọi người soi chung.
Nơi thành phủ nóng nồng hè đỏ,
Chốn sông hồ trời cứ gắt gay.
Lầu hoa cao trên ngọn cây,
Trước sân phất phới phướn bay bập bùng.
Màn như nhạn vút tung gió lốc,
Giống ve kêu, sáo ốc chiều hè.
Hứng cạn ở dưới mái tre,
Con thuyền ông cử chẳng hề thấy tăm.
Bạn thuở nhỏ chẳng còn một mống,
Chuyện tầm phào lại động đến người.
Già rồi, lệ cảm dễ rơi,
Tình riêng cố gửi trong vài bài thơ.
Trong chỗ kẹt biết nhờ ai gửi,
Nước không may tướng suý quyền uy.
Kinh Xuân thu nêu khen chê,
Cả danh lẫn khí hai bề phải ngang.
(Năm 769)

[1] Tuân ở phía tây bắc Giải Trì 解池 (thuộc tỉnh Sơn Tây, nổi danh vì mỏ muối), Hà ở phía nam Giải Trì, phiếm chỉ vùng Sơn Tây.
[2] Cống Vũ 貢禹, tự Thiếu Ông 少翁, đời Tây Hán. Thời vua Nguyên Đế, làm quan tới ngự sử đại phu. Qua thơ, Cống Vũ thường được nhắc nhở như một người thấy vui khi khích lệ bạn cùng triều, như Cống Vũ đối với Vương Cát 王吉. Cống Vũ vui mừng khi thấy Vương Cát được nhà vua trọng dụng. Ở đây dùng chỉ Vi Chi Tấn.
[3] Phùng Đường 馮唐 thời Tây Hán, làm quan qua nhiều đời vua. Tới đời Hán Vũ Đế cử ông chức vụ mới, lúc đó đã hơn chín chục tuổi, ông từ chối và đưa con ra làm thay.
[4] Ngô Quý Trát đi thăm nước Tấn, gặp Từ Quân, biết Từ Quân thích cây kiếm quý của mình. Khi trở về, Từ Quân đã chết, nhưng ông cứ vẫn đem kiếm ra treo trước mộ.
[5] Vi Hiền 韋賢 giữ chức thừa tướng đời Hán. Vi kinh có ý nói ghi chép những người nổi danh trong dòng họ Vi.
[6] Đời Tấn, ở Ngô Quận, Trương Bằng 張憑 thi đỗ hiếu liêm. Rất tự phụ về tài mình, tới thăm quan đầu huyện Đan Dương là Lưu Đàm 劉 惔 và cùng các người có học vị trong huyện nói chuyện. Lời lẽ sâu xa, cả bàn kinh hãi. Quan huyện họ Lưu mời Trương Bằng lên ngồi ghế trên, giữ ở lại cho đến sáng. Trương Bằng về lại thuyền. Ngay sau đó, quan huyện sai người di theo, nhận ra thuyền chở người mới đỗ hiếu liêm, cả bọn sửng sốt. Quan huyện họ Lưu lập tức dẫn Trương Bằng tới gặp quan phủ quân (tỉnh trưởng) tâu rằng “Hạ quan hôm nay vì quan Phủ quân mà có được một vị thái thường bác sĩ.” Phủ Quân vui mừng chấp thuận liền. Vậy “Thuyền ông cử”chỉ người tài được tuyên dương.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Khốc Vi đại phu Chi Tấn