09/10/2024 01:15Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi hongha83 vào 29/01/2010 02:32
Nguyên tác
季冬日已長,
山晚半天赤。
蜀道多早花,
江間饒奇石。
石柜曾波上,
臨虛蕩高壁。
清暉回群鷗,
暝色帶遠客。
羈栖負幽意,
感歎向絕跡。
信甘孱懦嬰,
不獨凍餒迫。
优遊謝康樂,
放浪陶彭澤。
吾衰未自安,
謝爾性所适。
Phiên âm
Quý đông nhật dĩ trường,
Sơn vãn bán thiên xích.
Thục đạo đa tảo hoa,
Giang gian nhiêu kỳ thạch.
Thạch Cự tằng ba thượng,
Lâm hư đãng cao bích.
Thanh huy hồi quần âu,
Minh sắc đới viễn khách.
Ky thê phụ u ý,
Cảm thán hướng tuyệt tích.
Tín cam sàn noạ anh,
Bất độc đống nỗi bách.
Ưu du Tạ Khang Lạc[1],
Phóng lãng Đào Bành Trạch[2].
Ngô suy vị tự an,
Tạ nhĩ tính sở thích.Dịch nghĩa
Cuối đông, ngày hết dài,
Núi vào buổi chiều, nửa khung trời đỏ ối.
Đường xứ Thục nhiều hoa sớm,
Lòng sông có lắm đá lạ.
Gác Thạch Cự ở trên sóng,
Vách cao đung đưa giữa quãng trống,
Đàn cò bay về trong ánh nắng,
Khách phương xa chìm trong sắc tối.
Ở nhờ nên sinh lòng buồn,
Than vãn với cõi xa thẳm.
Ưa dịu ngọt là lũ trẻ yếu ớt,
Đâu phải chỉ mình chúng bị đói rét.
Đi xa hơn người là ông Tạ Linh Vận,
Bứa bừa là ông Đào Tiềm.
Ta yếu kém chưa được yên ổn,
Cám ơn mi tính ta được thoả.Bản dịch của Phan Ngọc
Cuối đông ngày đã dài
Chiều núi nửa trời đỏ
Đường thục hoa sớm nhiều
Giữa sông lắm đá lạ
Thạch Cự nổi trên sóng
Chĩa thẳng lên trời xanh
Chim âu về đón nắng
Khách xa hưởng bóng râm
Lòng u nhàn, sống gửi
Nơi tuyệt vực cảm hoài
Đành mang con nhỏ tới
Đâu vì đói rét thôi
Thanh thản Tạ Khang Lạc
Phiêu dật Đào Tiềm xưa
Ta già bị trói buộc
Thực tình đành chịu thua
(Năm 759)
Tên bài có bản chép là "Thạch Quỹ các" 石櫃閣.
[1] Tạ Linh Vận, người đời gọi ông là Khang Lạc công.
[2] Đào Tiềm, người từng giữ chức chức lại ờ Bành Trạch.