21/04/2024 00:44Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Dương kỳ
揚旗

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 15/02/2015 21:52

 

Nguyên tác

江雨颯長夏,
府中有餘清。
我公會賓客,
肅肅有異聲。
初筵閱軍裝,
羅列照廣庭。
庭空六馬入,
駊騀揚旗旌。
回回偃飛蓋,
熠熠迸流星。
來纏風飆急,
去擘山嶽傾。
材歸俯身盡,
妙取略地平。
虹霓就掌握,
舒卷隨人輕。
三州陷犬戎,
但見西嶺青。
公來練猛士,
欲奪天邊城。
此堂不易升,
庸蜀日已寧。
吾徒且加餐,
休適蠻與荊。

Phiên âm

Giang vũ táp trường hạ,
Phủ trung hữu dư thanh.
Ngã công hội tân khách,
Túc túc hữu dị thanh.
Sơ diên thoát quân trang,
La liệt chiếu quảng đình.
Đình không lục mã nhập,
Phả ngả dương kỳ tinh.
Hồi hồi yển phi cái,
Tập tập bính lưu tinh.
Lai triền phong tiêu cấp,
Khứ phách sơn nhạc khuynh.
Tài quy phủ thân tận,
Diệu thủ lược địa bình.
Hồng nghê tựu chưởng ác,
Thư quyển tuỳ nhân khinh.
Tam châu[1] hãm Khuyển Nhung[2],
Đãn kiến Tây Lĩnh thanh.
Công lai luyện mãnh sĩ,
Dục đoạt thiên biên thành.
Thử đường bất dị thăng,
Dung Thục nhật dĩ ninh.
Ngô đồ thả gia xan,
Hưu thích man dữ kinh.

Dịch nghĩa

Mưa sông rơi vào ngày hè,
Trong trại không khí yên lành.
Lãnh đạo của tôi mời các quan khách,
Có tiếng lóc cóc lạ tai,
Trước khi vào tiệc cởi áo trận,
Bày la liệt loé sáng cả cái sân rộng.
Sáu con ngựa chạy vào sân trống,
Phất phới lá cờ vung lên.
Cuốn mở liên hồi như lọng dù,
Lấp loáng loé sáng như sao băng.
Tới như gió cuốn phần phật,
Lui như đỉnh núi đổ nghiêng.
Vừa quay về đã cúi gập mình,
Khéo léo kéo sát mặt đất.
Cầu vồng nằm trong tay múa,
Tung cuộn tuỳ thân đứ.
Ba châu bị Khuyển Nhung vây hãm,
Đã thấy vùng Tây Lĩnh xanh rì.
Ông tới lo luyện quân đội,
Muốn chiếm lại các thành nơi biên giới.
Doanh trại này khó mà bước lên,
Vùng Thục ngày nay đã bình yên.
Bọn ta được ăn nghỉ,
Khỏi lo chuyên kinh với thượng.

Bản dịch của Phạm Doanh

Ngày hè mưa sông rơi,
Trong phủ khí mát rượi.
Các khách, lãnh đạo mời,
Lọc cọc tiếng nghe mới.
Vào tiệc, bỏ quân trang,
Sân rộng đầy sáng chói.
Sân trống sáu ngựa vào,
Lá cờ bay phất phới.
Lồng lộng lọng nghiêng bay,
Loé sáng như sao đổi.
Lui tựa đỉnh núi nghiêng,
Tới là cơn gió nổi.
Người cúi gập, mới vào,
Đất nằm sát, tay với.
Cầu vồng nơi tay cầm,
Gấp mở tuỳ thân nới.
Ba châu, Khuyển Nhung vây,
Tây Lĩnh thấy rắc rối.
Ông về, lo luyện quân,
Thành ngoài mong lấy lại.
Đồn này đâu dễ vào,
Đất Thục nay loạn khỏi.
Bọn ta có miếng ăn,
Kinh, thượng thôi hết nói.
(Năm 764)

Nguyên chú: "Nhị niên, hạ, lục nguyệt, Thành Đô doãn Nghiêm công trí tửu công đường, quan kỵ sĩ thí tân kỳ xí" 二年夏六月,成都尹嚴公置酒公堂,觀騎士試新旗幟 (Tháng sáu, mùa hè, năm thứ hai, quan doãn ở Thành Đô là Nghiêm Vũ thết rượu ở cơ quan, coi kỵ sĩ thử lá cờ mới).

[1] Các châu Tùng, Duy, Bảo.
[2] Chỉ giặc Thổ Phồn. Năm đầu đời Quảng Đức (763), tiết độ sứ Kiếm Nam là Cao Thích không thể phái quân tới

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Dương kỳ