03/04/2023 06:40Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi tôn tiền tử vào 15/05/2020 05:55

Nguyên tác
山擁三邊一路橫,
明空苟口是傳名。
白巖懸樹當空碧,
幽谷回風盡日鳴。
巧局多人洪造設,
機心不自老禪生。
如將幻說為真事,
試看鯤鵬化北溟。
Phiên âm
Sơn ủng tam biên nhất lộ hoành,
Minh Không cẩu khẩu thị truyền danh.
Bạch nham huyền thụ đương không bích,
U cốc hồi phong tận nhật minh.
Xảo cục đa nhân hồng tạo thiết,
Cơ tâm bất tự lão thiền sinh.
Như tương huyễn thuyết vi chân sự,
Thí khán côn bằng[1] hoá bắc minh.Dịch nghĩa
Ba phía là núi, một con đường đi ngang,
Người đời gọi tên là miệng đó ông Minh Không.
Cây treo trên vách núi trắng, xanh biếc tầng không,
Gió vòng quanh hang tối, vi vu cả ngày,
Cảnh vật khéo lạ, phần lớn do tạo hoá vĩ đại bày ra.
Lòng cơ xảo chẳng phải do ông sư già gây ra,
Nếu như coi những điều huyền hoặc làm sự thật,
Thì hãy xem chuyện con cá côn, chim bằng ở biển bắc.Bản dịch của Trần Văn Nhĩ
Ba phía núi non, giữa một đường,
Đấy là miệng đó của Minh Không.
Cây treo vách trắng tầng không biết,
Gió quẩn hang sâu sớm tối luồn.
Cảnh vật đặt bày do Tạo hoá,
Lòng cơ chẳng tạo bởi sư ông.
Nếu điều huyền hoặc cho làm thật,
Gẫm chuyện chim bằng với cá côn.
Rút từ Hải Vân am thi tập (A.1515).
Nguyễn Minh Không (có sách chép là Dương Khổng Lộ) quê ở Điềm Giang (nay là Hoa Lư, Ninh Bình) là một thiền sư nổi tiếng dời Lý. Tương truyền ông rất giỏi pháp thuật, để lại dấu tích nhiều nơi mà “miệng đó” là một. Có lẽ bài này viết về “miệng đó” trên đường Tam Điệp, Nga Sơn.
Nguồn: Trần Văn Nhĩ, Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến, NXB Văn nghệ, 2005
[1] Cá côn, chim bằng. Sách Trang Tử viết: “Biển Bắc có con cá lớn gọi là cá côn, dài mấy nghìn dặm. Cá côn hoá ra chim bằng lưng cũng dài mấy nghìn dặm.” Từ chuyện hoang đường này, người ta dùng hình tượng cá côn, chim bằng để nói về ý chí lớn vùng vẫy, vươn lên của bậc dại trượng phu. Ý hai câu kết ý nói tuy miệng đó Không Lộ là hoang đường nhưng vẫn có ý nghĩa như chuyện cá côn, chim bằng.