30/03/2024 05:07Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tần Châu kiến sắc mục Tiết tam Cứ thụ tư nghị lang, Tất tứ Diệu trừ giám sát, dữ nhị tử hữu cố viễn, hỉ thiên quan kiêm thuật tác cư, hoàn tam thập vận
秦州見敕目薛三璩授司議郎畢四曜除監察與二子有故遠喜遷官兼述 索居凡三十韻

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 30/03/2015 07:41

 

Nguyên tác

大雅何寥闊,
斯人尚典刑。
交期餘潦倒,
材力爾精靈。
二子聲同日,
諸生困一經。
文章開穾奧,
遷擢潤朝廷。
舊好何由展,
新詩更憶聽。
別來頭並白,
相見眼終青。
伊昔貧皆甚,
同憂歲不寧。
棲遑分半菽,
浩蕩逐流萍。
俗態猶猜忌,
妖氛忽杳冥。
獨慚投漢閣,
俱議哭秦庭。
還蜀只無補,
囚梁亦固扃。
華夷相混合,
宇宙一膻腥。
帝力收三統,
天威總四溟。
舊都俄望幸,
清廟肅惟馨。
雜種雖高壘,
長驅甚建瓴。
焚香淑景殿,
漲水望雲亭。
法駕初還日,
群公若會星。
宮臣仍點染,
柱史正零丁。
官忝趨棲鳳,
朝回歎聚螢。
喚人看騕褭,
不嫁惜娉婷。
掘獄知埋劍,
提刀見發硎。
侏儒應共飽,
漁父忌偏醒。
旅泊窮清渭,
長吟望濁涇。
羽書還似急,
烽火未全停。
師老資殘寇,
戎生及近坰。
忠臣辭憤激,
烈士涕飄零。
小將盈邊鄙,
元勳溢鼎銘。
仰思調玉燭,
誰定握青萍。
隴俗輕鸚鵡,
原情類鶺鴒。
秋風動關塞,
高臥想儀形。

Phiên âm

Đại nhã hà liêu khoát,
Tư nhân thượng điển hình.
Giao kỳ dư lạo đảo,
Tài lực nhĩ tinh linh.
Nhị tử thanh đồng nhật,
Chư sinh khốn nhất kinh.
Văn chương khai yểu áo.
Thiên trạc nhuận triều đình.
Cựu hảo hà do triển,
Tân thi cánh ức thinh.
Biệt lai đầu tịnh bạch,
Tương kiến nhãn chung thanh.
Y tích bần giai thậm,
Đồng ưu tuế bất ninh.
Thê hoàng phân bán thục,
Hạo đãng toại lưu bình.
Tục thái do sai kỵ,
Yêu phân hốt yểu minh.
Độc tàm đầu Hán các[1],
Câu nghị khốc Tần đình[2].
Hoàn Thục chỉ vô bổ,
Tù Lương diệc cố quynh.
Hoa, Di tương hỗn hợp,
Vũ trụ nhất chiên tinh.
Đế lực thu tam thống,
Thiên uy tổng tứ minh.
Cựu đô nga vọng hạnh,
Thanh miếu túc duy hinh.
Tạp chủng tuy cao luỹ,
Trường khu thậm kiến linh.
Phần hương thục cảnh điện,
Trướng thuỷ vọng vân đình.
Pháp giá sơ hoàn nhật,
Quần công nhược hội tinh.
Cung thần nhưng điểm nhiễm,
Trụ sứ[3] chính linh đinh.
Quan thiểm xu thê phượng,
Triều hồi thán tụ huỳnh.
Hoán nhân khan yêu niểu,
Bất giá tích phinh ninh.
Quật ngục tri mai kiếm,
Đề đao kiến phát hình[4].
Chu nho ưng cộng bão,
Ngư phủ kỵ thiên tinh[5].
Lữ bạc cùng thanh Vị,
Trường ngâm vọng trọc Kinh.
Vũ thư hoàn tự cấp,
Phong hoả vị toàn đình.
Sư lão[6] tư tàn khấu,
Nhung sinh cập cận quynh.
Trung thần từ phẫn kích,
Liệt sĩ thế phiêu linh.
Tiểu tướng doanh biên bỉ,
Nguyên huân dật đỉnh minh.
Ngưỡng tư điều ngọc chúc[7],
Thuỳ định ác thanh bình.
Lũng tục khinh anh vũ,
Nguyên tình loại tích linh.
Thu phong động quan tái,
Cao ngoạ tưởng nghi hình.

Dịch nghĩa

Đại nhã sao mà sâu xa thế,
Người này còn giữ được phép cũ.
Quãng thời gian quen nhau tôi vất vả,
Về tài sức các bác thật mẫn nhuệ.
Cùng một ngày hai ông đạt danh vọng,
Trong khi các sĩ tử khác khó khăn ngay cả với một kinh sách.
Về văn chương các ông đã khui ra cái thâm thuý của nó,
Sự thay đổi thấm khắp triều đình.
Cái hay cũ do đâu mà lớn mạnh,
Thơ mới bèn nhờ đó mà nghe nhớ.
Từ khi xa cách đến giờ đầu đã bạc,
Gặp nhau mắt cuối cùng vẫn xanh.
Hệt như xưa đều cùng nghèo rớt,
Cùng chung một mối lo cho tuổi tác chẳng yên.
Ở nơi tạm trú chia nhau chút cơm độn,
Rồi lênh đênh như cánh bèo trôi.
Thói tục vẫn thường hay nghi kị,
Khí độc bỗng mịt mù.
Riêng thẹn nương nhờ nơi gác Hán,
Cùng bàn về việc khóc nơi sân Tần.
Trở lại Thục chỉ vô ích thôi,
Ngồi tù nơi xứ Lương, then cửa lại vững chắc.
Hai cái văn minh với man rợ cùng pha trộn với nhau,
Khiến trời đất thành một khối tanh hôi.
Sức vua thâu tóm ba mối (trời, đất, người),
Uy trời trùm bốn bể.
Chốn kinh đô cũ nghiêng đầu mong vua tới,
Nơi miếu thiêng có được hương thơm chính đáng.
Cái giống pha tạp (loại thấp hèn) tuy là so với tường thì cao đó,
Nhưng cứ lấn mãi tất cũng có ngày thành viên ngói trên đỉnh chóp.
Đốt hương nơi điện có cảnh đẹp,
Nước dân ngóng đình mây.
Phép tắc chi phối ngày mới trở về,
Các ông như là những ngôi sao tụ hội.
Các vị trong cung cứ giữ cách dính dơ,
Trụ sứ chịu cảnh long đong.
Quan hèn ùa tới chim phượng đang đậu,
Sau khi chầu vua về than cùng bầy đom đóm.
Gọi người coi ngựa nòi,
Không cưới thì tiếc cho gái xinh,
Phá hầm mới tìm ra kiếm chôn,
Vung dao thấy lộ cái tài mới.
Tên hề lùn mong cùng được no chung,
Ông chài ngại nhất là tỉnh táo riêng mình.
Đậu thuyền nơi hẻo lánh của sông Vị trong,
Ngâm dài mà ngóng sông Kinh đục.
Lệnh hành quân hoả tốc vẫn còn khẩn cấp,
Chòi lửa báo động chưa ngưng hoàn toàn.
Tướng mệt vì đương đầu với giặc tàn,
Tên Nhung còn tới gần nơi đồng.
Bậc trung thần lời lẽ phẫn khích,
Liệt sĩ thì nước mắt rưng rưng.
Tướng cấp nhỏ có mặt đầy nơi biên giới,
Những kẻ công lao cao thì ghi chật cả đỉnh.
Ngửa mặt nghĩ tới việc điều tiết đuốc ngọc,
Ai là kẻ định việc giữ lại bèo xanh.
Cái tục miền núi là coi thường chim anh vũ,
Tình nghĩa nơi đồng bằng lại thân với tích linh.
Gió thu thổi vù vù rung động miền quan ải,
Nằm ngủ mà cứ tưởng đúng hình hai bạn.

Bản dịch của Phạm Doanh

Đại nhã cớ sao mà bát ngát,
Các người này còn đạt điển hình.
Kết bạn tôi những lênh đênh,
Các ông tài sức tinh anh hơn người.
Hai ông đã thành tài cùng lúc,
Các trò kia thiếu sức hiểu kinh.
Văn chương đạt đến mức tinh,
Tung ra khắp cả triều đình cùng soi.
Cái tốt cũ do nơi nào nở,
Thơ mới làm nghe nhớ thuộc lầu.
Chia tay đều đã bạc đầu,
Gặp nhau mắt vẫn một màu xanh xanh.
Nhớ xưa kia đều đành phận bạc,
Cùng lo âu tuổi tác gieo neo.
Cơm độn chia bát, cảnh nghèo,
Lênh đênh cùng với cánh bèo trôi đi.
Thói đời vẫn thường nghi, ghen ghét,
Khí độc đâu mù mịt tuôn tràn.
Thấy ngượng triều Hán làm quan,
Sân Tần khóc rống cùng bàn chuyện xưa.
Trở về Thục, bằng thừa chẳng ước,
Ngồi tù Lương, tường chắc vây quanh.
Man di lẫn với văn minh,
Khiến cho cả nước hôi tanh một bầu.
Sức vua đã gồm thâu ba giới,
Uy trời thêm gộp lại bốn phương.
Kinh cũ ngẩng cổ vời trông,
Hương thơm chỉ có ở trong miếu này.
Tường cao tuy quây bầy lộn giống,
Nhưng cố ngoi cũng đụng thượng lương.
Cảnh điện đẹp, thắp nén hương
Đài mây xin ngóng, nước dâng tràn trề.
Phép chi phối, ngày về sơ khởi,
Bọn các ông, như hội sao sa.
Quan hoạn dính mãi vết nhơ,
Các ông đầu huyện bơ phờ lo dân.
Các quan nhỏ theo chân phượng đỗ,
Tan chầu về than thở bầy huỳnh.
Không lấy, thấy tiếc gái xinh,
Gọi người hãy tới coi nhanh, ngựa nòi.
Có phá ngục mới moi được kiếm,
Vung dao ra mới hiện tài hùng.
Hề lùn những muốn no chung,
Nhưng ông câu ngại tỉnh không một mình.
Đậu thuyền xa nơi ngành Vị đục,
Hát ngêu ngao ngóng nước Kinh trong.
Chuyển gấp là bức thư lông,
Đài lửa trên núi chưa ngưng hoàn toàn.
Tướng suý mệt vì đàn thảo khấu,
Bọn rợ Nhung ẩn náu bên đồng.
Trung thần lời lẽ tràn vung,
Liệt sĩ nước mắt ròng ròng tuôn rơi.
Viên tướng nhỏ đầy nơi biên giới,
Kẻ công to chói lọi đỉnh cao.
Để coi đuốc ngọc làm sao,
Ai người định nắm cái bèo xanh xanh.
Tục miền núi coi khinh anh vũ,
Tình đồng bằng lại mộ tích linh.
Gió thu quan ải rung rinh,
Gối đầu nằm tưởng là hình người quen.
(Năm 759)

[1] Làm quan nơi triều đình.
[2] Theo Tả truyện, thời Xuân Thu, nước Ngô xâm chiếm nước Sở. Thân Bao Tự 申包胥 tới nước Tần xin cứu viện. Đứng trước sân nơi triều đình mà khóc bảy ngày bảy đêm, nhờ thế mà cảm động vua Tần, và được phái viện binh tới cứu.
[3] Thuộc hàng quan văn, đứng đầu huyện, còn gọi là tuần vũ hay thị ngự.
[4] Do chữ “tân phát ư hình” 新發於硎 (bột phát trưởng thành). Nói hai ông Tiết Cứ và Tất Diệu đã từ lâu bị mờ nhạt, nay bỗng nhiên có cơ hội trổ tài.
[5] Khuất Nguyên: “Ngư phủ viết: chúng nhân giai tuý, hà bất bô kỳ tao nhi xuyết kỳ si” 漁父曰:眾人皆醉,何不餔其糟而歠其釃 (Ngư phủ nói: người đời đều say, sao không ăn cả bã mà nuốt cả hèm).
[6] Do chữ “sư lão binh bì” 師老兵疲 (tướng phờ, lính phạc).
[7] Khí thích hợp cho bốn mùa: xuân có thanh dương 青陽, hạ có chu minh 朱明, thu có bạch tàng 白藏, đông có huyền anh 玄英, bốn khí hoà hợp gọi là ngọc chúc.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tần Châu kiến sắc mục Tiết tam Cứ thụ tư nghị lang, Tất tứ Diệu trừ giám sát, dữ nhị tử hữu cố viễn, hỉ thiên quan kiêm thuật tác cư, hoàn tam thập vận