20/04/2024 21:45Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Biệt Đổng Đĩnh
別董頲

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 08/03/2015 11:46

 

Nguyên tác

窮冬急風水,
逆浪開帆難。
士子甘旨闕,
不知道裏寒。
有求彼樂土,
南適小長安。
別我舟楫去,
覺君衣裳單。
素聞趙公節,
兼盡賓主歡。
已結門閭望,
無令霜雪殘。
老夫纜亦解,
脫粟朝未餐。
飄蕩兵甲際,
幾時懷抱寬。
漢陽頗寧靜,
峴首試考盤。
當念著白帽,
采薇青雲端。

Phiên âm

Cùng đông cấp phong thuỷ,
Nghịch lãng khai phàm nan.
Sĩ tử cam chỉ[1] khuyết,
Bất tri đạo lý hàn.
Hữu cầu bỉ lạc thổ[2],
Nam thích tiểu Trường An.
Biệt ngã chu tiếp khứ,
Giác quân y thường đan.
Tố văn Triệu công[3] tiết,
Kiêm tận tân chủ hoan.
Dĩ kết môn lư vọng,
Vô lệnh sương tuyết tàn.
Lão phu lãm diệc giải,
Thoát túc triêu vị xan.
Phiêu đãng binh giáp tế,
Kỷ thì hoài bão khoan.
Hán Dương[4] phả ninh tĩnh,
Hiện Thủ[5] thí khảo bàn[6].
Đương niệm trước bạch mạo,
Thái vi[7] thanh vân đoan.

Dịch nghĩa

Vào cuối mùa đông gió, nước mạnh,
Gió ngược nên khó kéo buồm.
Kẻ sĩ thiếu vị ngon,
Không biết rằng con đường cái đi trong lạnh rét.
Có ý muốn đi tìm nơi vui sống kia,
Nên đi về phía nam, chỗ được coi như Trường An thu nhỏ.
Chia tay tôi rồi ông xuống thuyền đi,
Tôi biết rằng áo ông mỏng tanh.
Thường nghe đến lòng hào hiệp của ông họ Triệu,
Nhất là hết lòng tiếp đãi các tân khách.
Đã tin chắc rằng có nơi ăn chốn ở,
Không sợ gì việc trải tuyết, phơi sương.
Lão già này cũng nhổ neo đây,
Mà gạo để nấu cơm chiều nay thì chưa có.
Cứ lênh đênh đênh sát cạnh vùng chiến tranh,
Chừng nào thì trong lòng mới hết lo.
Hán Dương thì yên tĩnh hơn,
Thử tìm về núi Hiện Thủ mà vui cuộc sống ở ẩn.
Cứ nghĩ đến việc chít khăn trắng,
Đi hái rau vi tại nơi có mây xanh.

Bản dịch của Phạm Doanh

Nước sông xiết: cuối đông,
Nước ngược buồm khó mở.
Nhà nho thiếu vị ngon,
Đường lạnh buốt, không rõ.
Xuôi nam: tựa Trường An,
Đất hứa cần tìm chỗ.
Chào tôi, lên thuyền đi,
Biết anh áo thường hở.
Có nghe tiếng Triệu công,
Thêm vui khách với chủ.
Đã hứa nhà cửa nhờ,
Chẳng nề sương tuyết phủ.
Già này cũng nhổ neo,
Cơm chiều gạo chưa có.
Lênh đênh cạnh chiến trường.
Chừng nào lòng thư thả.
Hán Dương bình yên hơn,
Hiện Thủ tìm vui thử.
Khăn trắng nghĩ định mang,
Hái vi chốn mây tụ.
(Năm 768)

Đổng Đĩnh còn viết là 董侹 hay 董挺 (?-812), tự Thứ Trung 庶中, người Vũ Lăng, xuất thân quan lại. Năm Đại Lịch thứ ba (768) gặp Đỗ Phru ở Tương Dương (có sách lại cho là tại Công An). Đổng Đĩnh từ Vũ Lăng tới Đặng Châu xin người cầm đầu châu này là Triệu công trợ giúp về kinh tế.

[1] Chỉ miếng ngon. Theo Lễ ký 禮記, thiên Nội tắc 内則: "Do mệnh sĩ dĩ thượng, phụ tử giai di quan, muội sảng nhi triều, từ dĩ chỉ cam, nhật xuất nhi thối, các tòng kỳ sự, nhật nhập nhi tịch, từ dĩ chỉ cam" 由命士以上, 父子皆异官, 昧爽而 朝,慈以旨甘,日出而退,各從其事,日入而夕,慈以旨甘.
[2] Chỉ nước có nhân đức. Chữ từ Thi kinh 詩經, chương Thạc thử 碩鼠: dân căm giận nhà cầm quyền, nên bỏ đi nơi khác mà sống.
[3] Giữ chức thái thú Đặng Châu.
[4] Tả ngạn Trường Giang, thuộc tỉnh Hồ Bắc.
[5] Tên núi, cũng còn gọi là Hiện sơn, thuộc Tương Dương, Hồ Bắc, nổi danh với tấm bia Truỵ lệ bi 墮淚碑 của Dương Hỗ 羊祜.
[6] Tên một chương trong Thi kinh 詩經, ca ngợi người hiền lui về sống ẩn dật.
[7] Hái rau vi, chỉ Bá Di 伯夷, Thúc Tề 叔齊, khi phản đối Chu Vũ Vương vì đã diệt nhà Ân Thương, thề không ăn thóc nhà Chu, vào núi Thú Dương ở ẩn hái rau vi mà ăn. Khi gần qua đời có viết khúc Thái vi ca 采薇歌 để tỏ chí mình.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Biệt Đổng Đĩnh