21/04/2024 05:39Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Sơ Đường
Đăng bởi tranquanghung vào 24/06/2009 08:10
Nguyên tác
西陸蟬聲唱,
南冠客思深。
不堪玄鬢影,
來對白頭吟。
露重飛難進,
風多響易沉。
無人信高潔,
誰為表予心?
Phiên âm
Tây lục[1] thiền thanh xướng,
Nam quan[2] khách tứ thâm.
Bất kham huyền mấn[3] ảnh,
Lai đối bạch đầu ngâm.
Lộ trọng phi nan tiến,
Phong đa hưởng dị trầm.
Vô nhân tín cao khiết,
Thuỳ vị biểu dư tâm?Dịch nghĩa
Mùa thu ve sầu kêu,
Người tù nghĩ ngợi sâu xa.
Ve không kham nổi bóng đôi cánh đen của mình,
Nên đến ngâm trước ông già đầu bạc.
Sương nặng, bay khó tiến,
Gió nhiều, tiếng vang dễ bị chìm.
Không ai tin điều cao khiết,
Còn ai bày tỏ hộ nỗi lòng ta?Bản dịch của Nguyễn Khuê (II)
Thu đến, ve vang tiếng,
Người tù ý thiết tha.
Cánh đen kham chẳng nổi,
Đầu bạc tới ngâm nga.
Sương nặng, bay xa khó;
Gió nhiều, tiếng thoảng qua.
Ai tin chuyện cao khiết,
Mà lòng tỏ hộ ta?
Bài thơ này làm ra thời năm thứ Nghi Phong 3 (678) đời Cao Tông. Đương thời Lạc Tân Vương đang nhậm chức Thị ngự sử, nhân vì dâng sớ bàn luận sự việc chạm đến Vũ hậu, bị dèm pha, vu vào tội tham nhũng hạ ngục.
[1] Cõi đất ở phía tây, chỉ mùa thu.
[2] Mũ của người nước Sở, chỉ người ở tù.
[3] Hai cánh ve màu đen, nên gọi là mái tóc đen.