25/04/2024 22:38Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thông Tuyền dịch nam khứ Thông Tuyền huyện thập ngũ lý sơn thuỷ tác
通泉驛南去通泉縣十五裏山水作

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 02/03/2014 10:14

 

Nguyên tác

溪行衣自濕,
亭午氣始散。
冬溫蚊蚋在,
人遠鳧鴨亂。
登頓生曾陰,
欹傾出高岸。
驛樓衰柳側,
縣郭輕煙畔。
一川何綺麗,
盡目窮壯觀。
山色遠寂寞,
江光夕滋漫。
傷時愧孔父,
去國同王粲。
我生苦飄零,
所曆有嗟歎。

Phiên âm

Khê hành y tự thấp,
Đình ngọ khí thuỷ tán.
Đông ôn văn nhuế tại,
Nhân viễn phù áp loạn.
Đăng đốn sinh tằng âm,
Y khuynh xuất cao ngạn.
Dịch lâu suy liễu trắc,
Huyện quách khinh yên bạn.
Nhất xuyên hà ỷ lệ,
Tận mục cùng tráng quan.
Sơn sắc viễn tịch mịch,
Giang quang tịch tư mạn.
Thương thì quý Khổng phụ,
Khứ quốc đồng Vương Xán[1].
Ngã sinh khổ phiêu linh,
Sở lịch hữu ta thán.

Dịch nghĩa

Đi qua khe suối nên áo ướt hết,
Tới giữa trưa hơi mới tan.
Mùa đông hơi ấm nên đầy muỗi,
Vắng người le với vịt chạy bừa.
Cao thấp tạo ra bóng rợp,
Nghiêng thẳng hiện ra những sườn cao.
Lầu trạm cây liễu già tựa vào,
Thành huyện mây nhẹ trùm.
Một con sông sao đẹp thế,
Nhìn hút mắt đều thấy cảnh đẹp.
Sắc núi xa êm đềm,
Ánh sông rực sáng trong ban chiều.
Buồn vì thời thế thấy thẹn với cụ Khổng,
Bỏ nước ra đi giống như Vương Xán vậy.
Đời ta đã khổ vì cảnh phiêu dạt,
Chỗ nào đi qua mà chả thở than.

Bản dịch của Nhượng Tống

Qua khe áo thấy ướt
Non trưa hơi mới tan
Đôn ám muỗi họp chợ
Người vắng le hàng đàn
Nghiêng lệch bờ đứng dốc
Thấp cao mây ngút ngàn
Lầu trạm liễu già gục
Thành huyện khói chiều lan
Dòng sông sao đẹp thế?
Đưa mắt cảnh muôn vàn
Ánh nước tối lấp loáng
Màu núi xa mê man
Riêng tủi quê xa vắng
Dám thương đời gian nan
Chiếc thân xiêu dạt khổ
Đi đâu không thở than
(Năm 762)

[1] Vương Xán (177-217) tự Trọng Tuyên 仲宣, thời Đông Hán nương nhờ Lưu Biểu ở Kinh Châu, sau làm quan với nhà Nguỵ tới chức thị trung, là một trong Kiến An thất tử. Khi ở Kinh Châu, thường ở trên lầu cao, viết bài "Đăng lâu phú" tỏ ý nhớ nhà.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Thông Tuyền dịch nam khứ Thông Tuyền huyện thập ngũ lý sơn thuỷ tác